Vua Hùng là ai? Tìm hiểu lịch sử 18 đời vua Hùng
Theo sử sách ghi lại, thời đại các vua Hùng là một khởi đầu ấn tượng, rực rỡ và nổi bật cho việc thành lập nước Việt Nam với tư cách là một quốc gia có chủ quyền. 18 đời Vua Hùng đã chứng kiến sự ra đời và phát triển của nước Việt Nam và được ghi nhận là đã rèn giũa những đức tính dân tộc như ý thức cộng đồng, tương thân tương ái, lòng yêu nước và không chịu khuất phục trước áp bức. Từ nhà nước Văn Lang, Âu Cơ đến nền văn minh sông Hồng và các nền văn hóa tiền Đông Sơn phát triển vô cùng thịnh vượng.
Vì các vua Hùng đại diện cho tổ tiên, cho truyền thống dựng nước và là niềm tự hào về nền văn minh đậm đà bản sắc riêng suốt nhiều nghìn năm nên từ bao đời nay, dân tộc Việt Nam đều thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” qua tổ chức lễ hội trên toàn quốc để kỷ niệm ngày Hùng Vương đầu tiên lên ngôi. Ngày này được gọi là Ngày giỗ tổ Hùng Vương tổ chức vào mỗi 10/3 âm lịch hàng năm. Nếu bạn chưa biết 18 vị vua Hùng là ai? Cùng Twinkl tìm hiểu lịch sử vua Hùng qua bài viết này nhé!
Vua Hùng là ai?
Vua Hùng hay vẫn còn gọi là Hùng Vương (-- 2879 TCN) là tên hiệu các vị thủ lĩnh tối cao của nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt - những triều đại được cho là được lập ra hơn 4.000 năm trước. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Thời đại Hùng Vương tồn tại khoảng 2.622 năm, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) trước Công Nguyên. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) thôn tính.
Một số văn bản cổ mô tả lãnh địa của Hùng Vương trải dài về phía nam từ Động Đình đến miền Trung Việt Nam ngày nay; những người khác chỉ ra rằng chủ quyền của ông có thể chỉ tập trung xung quanh địa điểm Huế hiện nay. Theo các ghi chép, Hùng Vương, tên có nghĩa là Mạnh Trưởng, hay Trưởng Lão Mạnh, là con trai của Lạc Long Quảng trong thần thoại. Vua Hùng Vương chia đất nước thành các quận hành chính và giao cho các công chức và sĩ quan quân đội cai quản.
Câu chuyện lịch sử vua Hùng không có trong chính sử mà nằm trong các truyền thuyết dân gian của người Việt được kể lại qua nhiều đời. Theo truyền thuyết, có 18 đời vua Hùng và các vua Hùng là hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Hùng Vương thứ I sinh năm 2879 trước công nguyên, Hùng Vương thứ XVIII lại mất năm 258 trước công nguyên. Danh sách 18 vị vua Hùng bao gồm:
- Kinh Dương Vương(涇陽王): 2879 - 2794 TCN (số năm trị vì là ước đoán). Huý là Lộc Tục (祿續).
- Hùng Hiền Vương(雄賢王), còn được gọi là Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君): 2793 - 2525 TCN. Huý là Sùng Lãm (崇纜).
- Hùng Lân Vương (雄麟王): 2524 - 2253 TCN.
- Hùng Việp Vương (雄曄王): 2252 - 1913 TCN.
- Hùng Hy Vương (雄犧王): 1912 - 1713 TCN (phần bên trái chữ "Hi" 犧 là bộ "ngưu" 牛).
- Hùng Huy Vương (雄暉王): 1712 - 1632 TCN.
- Hùng Chiêu Vương (雄昭王): 1631 - 1432 TCN.
- Hùng Vĩ Vương (雄暐王): 1431 - 1332 TCN.
- Hùng Định Vương (雄定王): 1331 - 1252 TCN.
- Hùng Hi Vương (雄曦王): 1251 - 1162 TCN (phần bên trái chữ "Hi" 犧 là bộ "nhật" 日).
- Hùng Trinh Vương (雄楨王): 1161 - 1055 TCN.
- Hùng Vũ Vương (雄武王): 1054 - 969 TCN.
- Hùng Việt Vương (雄越王): 968 - 854 TCN.
- Hùng Anh Vương (雄英王): 853 - 755 TCN.
- Hùng Triêu Vương (雄朝王): 754 - 661 TCN.
- Hùng Tạo Vương (雄造王): 660 - 569 TCN.
- Hùng Nghị Vương (雄毅王): 568 - 409 TCN.
- Hùng Duệ Vương (雄睿王): 408 - 258 TCN.
Vậy 18 vị vua Hùng gắn với những sự kiện lịch sử gì? Cùng tìm hiểu lịch sử 18 đời vua Hùng trong phần tiếp theo nhé!
Truyền thuyết vua Hùng
Tương truyền, hàng nghìn năm trước, Lạc Long Quân (Rồng Vương của bộ tộc Lạc Việt) có sức mạnh siêu phàm, thích ở gần nước. Chàng kết duyên với tiên nữ Âu Cơ (con gái Đế Lai, vua của một bộ tộc phương bắc trên cao nguyên) khi nàng du ngoạn phương nam. Thời gian trôi qua, Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm người con xinh đẹp. Những đứa trẻ lớn lên khỏe mạnh và thông minh giống cha, và tốt bụng và khéo léo giống mẹ. Họ được dạy kỹ cách canh tác đất đai và sống cao thượng. Nhưng ngay sau đó, cặp đôi bắt đầu không hạnh phúc. Lạc Long Quân luôn thấy lòng mình khát khao những miền biển trong khi Âu Cơ không ngừng khao khát những cao nguyên.
Hai vợ chồng quyết định chia con, năm mươi đứa sẽ cùng Lạc Long Quân sinh sống dọc bờ biển. Âu Cơ sẽ dẫn năm mươi người còn lại lên nương rẫy ở với nàng. Tuy nhiên, họ đã hứa với nhau rằng bất chấp khoảng cách và sự xa cách, họ phải chăm sóc lẫn nhau và luôn ở bên để giúp đỡ nếu ai đó cần. Lạc Long Quân và Âu Cơ là con cháu của nước Việt Nam nên người Việt Nam tự xưng là “con Rồng cháu Tiên”.
Con trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ đã cùng mẹ lập nghiệp ở Phong Châu nay là nam bộ tỉnh Phú Thọ và tự xưng làm vua. Đó là vua Hùng I, vương quốc do 50 bộ lạc hợp thành. 18 vị vua Hùng cai trị đất nước từ năm 2879 đến 258 TCN.
Lịch sử 18 đời vua Hùng
Như đã liệt kê ở phần đầu, lịch sử Việt Nam có 18 đời vua Hùng. Mỗi đời vua Hùng đều gắn liền với một bản sắc dân tộc riêng suốt nhiều nghìn năm.
1. Kinh Dương Vương (涇陽王): 2879 - 2794 TCN
Kinh Dương Vương (chữ Hán: 涇陽王) là một nhân vật truyền thuyết trong lịch sử, tương truyền ông là Đức thủy tổ của người Việt, mở ra nhà nước sơ khai độc lập có chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Theo Mộc bản sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, năm 2879 trước Công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi, lập nên nhà nước Xích Quỷ (chữ Hán: 赤鬼 tên một vì sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong số 28 vì sao sáng trên bầu trời). Sau đó dời đô ra Ao Việt (Việt Trì). Các vua Hùng là hậu duệ huyết thống của Kinh Dương Vương.
Tại Lăng Kinh Dương Vương có ghi: Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục, là bậc thánh trí có tư chất thông minh, tài đức hơn người, sức khỏe phi thường. Kinh Dương Vương lấy Thần Long sinh ra Lạc Long Quân (húy là Sùng Lãm). Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh ra 100 người con. Con cả là Hùng Quốc Vương.
Kinh Dương Vương mất ngày 18 tháng 1 tại trang Phúc Khang, bộ Vũ Ninh (Bắc Ninh ngày nay) và được nhân dân kính cẩn lập miếu thờ.
2. Hùng Hiền Vương (雄賢王) hay Lạc Long Quân: 2793 - 2525 TCN
Mặc dù trong số 18 đời vua Hùng, Kinh Dương Vương là vua đầu tiên của phương Nam, nhưng chính con của ông là Lạc Long Quân Hoặc húy Sùng Lãm mới là vị Hùng Vương nổi tiếng nhất, là vị vua tu luyện đắc Đạo và vị Thần cổ xưa đầu tiên khai sinh ra dòng giống Bách Việt và định lãnh thổ cho quốc gia Văn Lang thời cổ đại.
Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân tên là Nguyễn Lâm, tên huý là Sùng Lãm, tự là Phúc Thọ, thụy là Hùng Hiền Vương, con trai của Kinh Dương Vương. Lạc Long Quân lên nối ngôi 33 tuổi, đổi hiệu là Hùng Hiền vương, trở thành vị vua đầu tiên của triều đại Hùng Vương của quốc gia Văn Lang. Ông trị vì 269 năm, từ năm Mậu Tý (2793 TCN ) đến năm Bính Thìn (2525 TCN).
Nhân duyên trời định đã đưa đến cho ông một người vợ vốn gốc Tiên để khai mở ra dòng giống Bách Việt sau này. Người vợ này chính là Âu Cơ, tổ mẫu của dân tộc ta. Sau khi về làm vợ Lạc Long Quân, Âu Cơ đã sinh ra cho ông những người con trai một cách thần kỳ mà sự tích còn lưu truyền đến ngày nay.
Lạc Long Quân không những là một vị Hùng Vương nổi tiếng nhất, Ngài còn là một vị thần bảo hộ cho dân tộc Việt Nam từ thời thượng cổ. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi! Sao không lại cứu chúng tôi!". Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi. Các Thần tích mà Ngài vì dân trừ hại đến nay vẫn được ca tụng lưu truyền. Lạc Long Quân còn dạy cho dân chúng cách ăn ở sinh sống cùng các phong tục tập quán tốt đẹp.
3. Hùng Lân Vương (雄麟王): 2524 - 2253 TCN
Hùng Quốc Vương là vị vua Hùng thứ III, tên húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi 272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 TCN ) đến 2253 TCN.
4. Hùng Hoa Vương (雄曄王)
Hùng Hoa Vương là vị vua Hùng thứ IV, húy Bửu Lang, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 TCN ) đến năm Mậu Thìn (1913 TCN ).
5. Hùng Hy Vương (雄犧王)
Hùng Hy Vương (雄犧王) là vị vua Hùng thứ V trong 18 đời vua Hùng, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 TCN) đến Mậu Tý (1713 TCN).
6. Hùng Hồn Vương (雄暉王)
Hùng Hồn Vương (雄暉王), húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 TCN), lên ngôi khi 29 tuổi, ở ngôi tất cả 81 năm, từ năm Kỷ Sửu (1712 TCN) đến năm Kỷ Dậu (1632 TCN).
7. Hùng Chiêu Vương (雄昭王)
Trong số 18 đời vua Hùng, Hùng Chiêu Vương (雄昭王), húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 TCN) là vị vua Hùng thứ VII. Hùng Chiêu Vương lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 TCN) đến năm Kỷ Tỵ (1432 TCN).
8. Hùng Vỹ Vương (雄暐王)
Hùng Vỹ Vương (雄暐王), húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 TCN) lên ngôi khi 39 tuổi, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 TCN) đến năm Kỷ Dậu (1332 TCN).
9. Hùng Định Vương (雄定王)
Hùng Định Vương (雄定王), húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 TCN), lên ngôi khi 45 tuổi, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 TCN.
10. Hùng Uy Vương (雄曦王)
Hùng Uy Vương (雄曦王), húy Hoàng Long Lang, trị vì 90 năm, từ 1251 đến 1162 TCN
11. Hùng Trinh Vương (雄楨王)
Hùng Trinh Vương (雄楨王), húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 TCN), lên ngôi khi 51 tuổi, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 TCN).
12. Hùng Vũ Vương (雄武王)
Hùng Vũ Vương (雄武王), húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 TCN) đến năm Nhâm Tuất (969 TCN).
13. Hùng Việt Vương (雄越王)
Hùng Việt Vương (雄越王), húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL), lên ngôi khi 23 tuổi, ở ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 TCN) đến Đinh Mùi (854 TCN).
14. Hùng Anh Vương (雄英王)
Hùng Anh Vương (雄英王), húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 TCN) lên ngôi khi 42 tuổI, ở ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 tr. TL.
15. Hùng Triệu Vương (雄朝王)
Hùng Triệu Vương (雄朝王), húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 TCN), lên ngôi khi 35 tuổi, ở ngôi tất cả 94 năm, từ năm Đinh Hợi (754 TCN) đến năm Canh Thân (661 TCN).
16. Hùng Tạo Vương (雄造王)
Hùng Tạo Vương (雄造王) là Hùng Vương thứ XVI. Tên húy là Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 TCN), ở ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 TCN) đến năm Nhâm Thìn (569 TCN).
Trong thời kỳ này, các lãnh đạo địa phương đã nổi dậy chống lại vua Hùng. Giai đoạn kết thúc khi nghĩa quân đầu hàng do sự đàn áp của lực lượng Thạch Tướng.
Khoảng một năm 600 trước Công nguyên, phong cách luyện kim độc đáo của trống đồng Đông Sơn đã được phát minh trong thời kỳ vua Hùng Tạo Vương.
Một khía cạnh quan trọng của văn hóa Việt Nam vào thế kỷ thứ sáu TCN là thủy lợi của các cánh đồng lúa thông qua một hệ thống kênh và đê phức tạp. Ruộng được gọi là ruộng Lạc.
17. Hùng Nghị Vương (雄毅王): 568 - 409 TCN
Hùng Nghị Vương (雄毅王), húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 TCN) lên ngôi khi 9 tuổi, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 TCN).
Hùng Nghị Vương là Hùng Vương thứ XVII trong 18 đời vua Hùng. Tương truyền, vua Hùng thứ XVII có một người con nuôi là Mai An Tiêm, ông tổ trồng dưa ở Việt Nam.
Truyền thuyết kể rằng vua Hùng Vương thứ mười bảy có một người con nuôi là An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người. Vua yêu mến An Tiêm thường ban cho của ngon vật quý. Có thuyết lại nói rằng Mai An Tiêm là nô bộc, sau được lấy con gái nuôi của Hùng Vương là nàng Ba. An Tiêm thường nói: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ!" nên bị các quan tấu lên vua. Vua nổi giận bèn đày gia đình An Tiêm ra đảo hoang.
Sau một thời gian vật lộn với cuộc sống hoang dã, An Tiêm phát hiện ra hạt của loài trái mà chim chóc thích ăn. Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột, đỡ đói, chàng có ý mừng, lấy gươm xới một khoảnh đất mà gieo hạt xuống. Sau đó hạt ra cây, cây ra quả, gia đình An Tiêm cứ trồng dưa thêm mãi. Cứ mỗi lần hái dưa, An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Dưa trôi biệt tăm tích không biết bao lần, trăng non rồi trăng già không biết bao bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng. Quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến hỏi xem ai đã trồng được giống dưa quý, để đổi về đem bán trên đất liền. Từ đấy An Tiêm đổi được các thức ăn dùng thường ngày và còn cất được một cái nhà lá xinh xinh.
Về phần vua Hùng Vương, từ ngày bỏ An Tiêm ra hoang đảo, vua yên trí rằng An Tiêm đã chết rồi, đôi khi nghĩ đến cũng có bùi ngùi thương hại. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng quả dưa lạ, vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu lượm hết những quả dưa chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm, và truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón.
18. Hùng Duệ Vương (雄睿王): 408 - 258 TCN
Hùng Duệ Vương (雄睿王), sinh năm Canh Thân (421 TCN), lên ngôi khi 14 tuổi, ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 TCN) đến năm Quý Mão (258 TCN).
Hùng Duệ Vương là Hùng Vương thứ XVIII (~334 - 258 TCN). Ông là một vị vua truyền thuyết của nước Văn Lang trong lịch sử Việt Nam và là vị Hùng Vương cuối cùng của thời đại vua Hùng. Tương truyền Hùng Vương thứ XVIII có hai con rể là Chử Đồng Tử và Sơn Tinh.
Theo truyền thuyết, Hùng Vương thứ XVIII có ba người con gái là Mỵ nương Tiên Dung, Mỵ nương Ngọc Hoa và Mỵ nương Ngọc Nương.
Mỵ nương cả là Tiên Dung đến tuổi cập kê không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến thăm vùng Chử Xá, nơi có chàng trai Chử Đồng Tử câu cá ngoài bãi. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.
Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Vợ chồng Chử Đồng Tử mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Chử Đồng Tử trong một lần đi buôn bán xa gặp một đạo sĩ tên Phật Quang, ở lại học phép thuật. Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông. Chử Đồng Tử - Tiên Dung bèn bỏ việc buôn bán, chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng. Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung-Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn, người dân gọi là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm).
Mỵ nương thứ hai là Ngọc Hoa khi đến tuổi cập kê, vua Hùng bèn mở hội kén rể. Có hai vị thần là Sơn Tinh và Thủy Tinh đến kén rể, đều mang trong mình sức mạnh phi thường. Vua Hùng rất khó xử về việc nên gả con gái cho người nào, nên ông đã ra quyết định ai dâng những lễ vật tới sớm nhất thì sẽ được gả Mị Nương. Sính lễ bao gồm một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi. Vì dưới biển nên Thủy Tinh có ít sản vật như nhà vua nói trên. Chỉ có Sơn Tinh là có thể tìm ra những sản vật nộp nhanh cho nhà vua. Khi Sơn Tinh đã trở thành con rể vua Hùng thì Thủy Tinh đùng đùng nổi giận, bèn sai những quân lính cùng mình đi đánh Sơn Tinh. Một cuộc chiến lớn đã xảy ra giữa hai người.Nhưng Thủy Tinh không thể đánh lại được Sơn Tinh đành rút quân về. Từ đó, Thủy Tinh và Sơn Tinh thường xuyên đánh nhau mỗi năm, gây ngập lụt vùng dân sinh sống. Nhưng lần nào Thủy Tinh cũng thua, đành rút quân về.
Chiến tranh Hùng-Thục
Vào thế kỷ III TCN, các bộ lạc Âu Việt ở vùng núi phía Bắc Việt Nam và nam Quảng Tây (khoảng 9 bộ lạc) bắt đầu hình thành nhà nước riêng của người Âu Việt do Thục Chế đứng đầu, đóng đô ở Nam Cương (nay là tỉnh Cao Bằng). Sau khi Thục Chế mất, Thục Phán đã tiến hành tiêu diệt thủ lĩnh của 9 bộ lạc và dần khuếch trương lãnh thổ về phía nướcVăn Lang của người Lạc Việt. Theo truyền thuyết, do Hùng Vương thứ XVIII không chịu gả con gái cho Thục Phán nên Thục Phán dấy quân đánh vua Hùng, sử gọi là Chiến tranh Hùng-Thục.
Hùng Vương bèn truyền ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn (hay Nguyễn Tùng, có thuyết đồng nhất với Sơn Tinh) để chống Thục. Nguyễn Tuấn cùng với hai tướng là Cao Sơn và Quý Minh đã ngăn chặn được nhiều cuộc tấn công của Thục Phán, chặn đứng quân Thục ở ải Nam Sơn. Cuộc chiến lâm vào giằng co cho đến khi quân đội của nhà Tần (Trung Quốc) do Đồ Thư chủ soái đánh bại người Âu Việt ở phía vùng Lưỡng Quảng của thủ lĩnh Dịch Hu Tống và tiến công vào vùng lãnh thổ của người Âu Việt và Lạc Việt thuộc Việt Nam ngày nay.
Thời đại Hùng Vương kết thúc khi nào?
Vào cuối thời Hồng Bàng, nhà Tần bắt đầu mở rộng lãnh thổ xuống phía nam, xâm lược các tộc Bách Việt. Nước Văn Lang của tộc Lạc Việt đã liên minh với tộc Âu Việt của Thục Phán để cùng nhau chống Tần. Kết quả là cuộc kháng chiến chống Tần thắng lợi sau 10 năm. Sau chiến thắng, Hùng Vương thoái vị, Thục Phán - người có công lao lớn nhất trong cuộc chiến - nối ngôi, thống nhất hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt thành nước Âu Lạc.
Trên đây là tất tần tật những thông tin về lịch sử vua Hùng và 18 đời vua Hùng. Lòng yêu nước và tinh thần độc lập, tự do dân tộc được khởi nguồn từ thời các Vua Hùng và liên tục được phát huy trong quá trình đấu tranh giành, giữ độc lập dân tộc của cha ông ta. Cùng với dòng chảy lịch sử, những giá trị văn hóa thời kỳ Hùng Vương vẫn được tồn tại và bảo lưu tới ngày nay.