Tư tưởng akutagawa ryunosuke trong hai tác phẩm rashomon” và “yabu no naka”?
sáng tác
1.Vài nét về tác giả Akutagawa Ryunosuke
- Akutagawa Ryunosuke ( 1892- 1927) là nhà văn cận đại Nhật Bản nổi tiếng với thể loại truyện ngắn.
- Là thủ lĩnh của văn phái Tân hiện thực (shingenjitsushugi) Nhật Bản, một khuynh hướng dung hòa được những tinh hoa lý trí của chủ nghĩa tự nhiên và sắc màu lãng mạn phóng túng của chủ nghĩa duy mỹ, thể hiện một phong cách riêng biệt hòa trộn giữa hiện thực và huyền ảo bằng bút pháp hoa mỹ mà súc tích.
- Akutagawa cũng đồng thời là cây bút chủ đạo của tạp chí Tân tư trào (Shinshichō), một tạp chí với tôn chỉ và hành động nhằm thúc đẩy việc thiết lập chế độ dành mọi ưu tiên về tự do và no ấm cho giai cấp bình dân.
- Là một cây bút kiệt xuất với trên 140 tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn và các bài phê bình, trong khoảng mười năm trước khi tự tử ở tuổi 35, Akutagawa Ryūnosuke đã đưa ra những sáng tác hiện thực mà sự đa dạng về nội dung và hình thức của chúng lớn hơn bất cứ tác phẩm của nhà văn nào cùng thời với ông, phản ánh sự nhạy cảm nội tâm và chiều sâu tri thức của một người am hiểu sâu sắc văn chương Nhật Bản truyền thống, văn học Trung Hoa cổ điển và tư tưởng phương Tây hiện đại. Những sáng tác của Akutagawa trải rộng đề tài trên rất nhiều bình diện xã hội.
- Theo Murakami Haruki, nếu bình chọn 10 nhà văn hiện đại tầm cỡ quốc gia Nhật Bản, Akutagawa Ryunosuke nhất định phải ở trong số đó vì ông đã “để lại cho chúng ta những tác phẩm hàng đầu phản ánh sinh động tâm tính dân tộc Nhật ở thời đại của mình.” Trong di sản văn chương của thiên tài đoản mệnh Akutagawa, truyện ngắn “Trong rừng rậm” là một trong những kiệt tác đã đưa ông vượt ra ngoài biên giới quốc gia và trở thành tượng đài trên văn đàn thế giới.
- Vào cuối cuộc đời của mình, mệt mỏi với nỗi bất an thường trực do dao động trước những biến cố xã hội dưới sức ép chủ nghĩa Marx ảnh hưởng sâu rộng trong giới trí thức Nhật Bản đương thời, phần do sức khỏe suy sụp vì suy nhược thần kinh, Akutagawa bắt đầu bị ảo giác thị giác và rơi vào lo lắng vì nỗi sợ hãi rằng ông đã thừa hưởng chứng rối loạn tâm thần của mẹ mình. Năm 1927, ông đã tự tử bằng cách uống quá liều và kết thúc cuộc đời khi mới chỉ 35 tuổi.
• Mội vài tác phẩm nổi bật.
+ Cái mũi (Hana, 1916), Tuổi già (Ronen, 1914), Bức bình phong địa ngục (Jigokuhen, 1918), Cháo khoai (Imogayu, 1916), và truyện ngắn sau này chuyển thể thành kịch bản điện ảnh cùng tên La Sinh Môn (Rashomon, 1915) lấy bối cảnh và đề tài từ truyền thống;
+ Tiệc khiêu vũ (Butokai, 1920), Con nộm (Hina, 1923) nói về sự tiếp thu văn minh Âu Tây thời kỳ Minh Trị.
+ Cái chết của một con chiên (Hōkyonin no shi, 1918), Truyện thánh Christopher (Kirishitohoro shōninren, 1919) viết về thời người ngoại quốc đến truyền giáo.
+ Tập truyện Sợi tơ nhện (Kumo no ito, 1918), Cậu bé Đỗ Tử Xuân (Toshishun, 1920) mượn đề tài Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa đời Đường;
+ Tiểu thuyết trào phúng Kappa (Kappa, 1927), truyện ngắn Ngôn từ của người lùn (Shuju no kotoba, 1923-1925) phê phán các chính sách kiểm soát báo giới của nhà cầm quyền đương thời.
+ Cuộc sống đầu đời của Daidōji Shinsuke (Daidōji Shinsuke no hansei, 1925), Cuộc đời một kẻ ngốc (Aru ahō no isshō) sử dụng phong cách tự thuật.
2. Vài nét giới thiệu về hai tác phẩm “Rashomon” và “Yabu no naka”
• Truyện ngắn “ Rashomon” ( Lã sinh môn)
- Truyện ngắn Rashomon (Lã Sinh Môn) được sáng tác vào năm 1915, lấy cảm hứng từ truyện “Tên kẻ trộm đã trông thấy người chết trên cổng Rashomon“ trong Konjaku Monogatari (Truyện bây giờ đã xưa), một tác phẩm của thời trung cổ Nhật Bản. Đó là đoạn về người ăn trộm đã trông thấy xác chết trên gác cổng Rashomon và đoạn về bà già bán cá trong trận Tatewaki. Tuy nhiên, Akutagawa đã thay đổi nhân vật người ăn trộm trong truyện cổ thành gã nô bộc – chưa hề ăn trộm. Và câu chuyện trên gác cổng Rashomon là diễn tiến giằng co giữa Thiện và Ác trong lòng nhân vật gã nô bộc, cuối cùng cái Ác đã biện hộ và xô đẩy nhân vật vào một cái Ác tiếp theo.
- Là một trong những tác phẩm đầu tay của Akutagawa Ryunosuke , Khi.Ryunosuke gửi đăng truyện này trên nội san Đế quốc văn học của khoa Văn trường Đại học Tokyo, bè bạn đã không chú ý lắm, thậm chí có người còn khuyên ông gác bút. Thế nhưng sau này, giới văn học Nhật Bản đã đánh giá đây là một tuyệt tác của Akutawa.Ryunosuke , tác phẩm đầu tiên hình thành lối viết của ông sau đó, xây dựng truyện dựa trên các chất liệu có sẵn trong các tác phẩm cổ điển.
- Akutagawa đã giải thích rằng , khi muốn diễn tả thật nghệ thuật một đề tài nào đó thì có thể phải tạo ra một sự việc thật khác thường, nhưng những sự việc thật khác thường lại khó xảy ra trong cuộc sống thực, sẽ có vẻ như bịa đặt, không được tự nhiên, do đó mà ông lấy các chi tiết từ các truyện có sẵn.
• Truyện ngắn “Yabu no naka” ( Trong rừng trúc)
- Tác phẩm được Akutagawa Ryunosuke viết từ năm 1922 và tác phẩm này sau đó được chuyển thể thành phim với tựa đề “Lã sinh môn”(1950) “Yabu no naka” cho tới nay vẫn được coi là sáng tác hay nhất trong sự nghiệp của Akutagawa Ryunosuke và là một trong những tác phẩm kinh điển nhất trên văn đàn thế giới.
- Nội dung: Nội dung câu chuyện xoay quanh lời khai của các nhân chứng và tội phạm về cái chết của một người đàn ông. Mỗi người một lời khai khác nhau nghe đầy mâu thuẫn nhưng lại đều là sự thật. Trải qua gần 100 năm, cho tới nay, chưa ai dám nhận mình có thể đưa ra một lời giải hoàn mỹ cho vụ án dù ai cũng có suy luận của mình.
B. Phần nội dung
I. Rashomon – Sự đấu tranh và ranh giới mong manh giữa cái thiện và cái ác trong bản thân con người
1. Tóm tắt nội dung Rashomon (Lã Sinh môn)
Cổng Rashomon từ lâu đã bị bỏ mặc tiêu điều hoang phế, thường làm nơi trú ẩn cho chồn cáo và phường trộm cắp. Cả những xác chết không ai nhận đều được vứt ở đây, vì thế mà ngày đêm những con quạ cứ bay và kêu quanh đó.
Một chiều mưa, có gã nô bộc vừa bị chủ cho thôi việc mấy ngày trước chạy đến trú mưa dưới cổng Rashomon. Trời cứ dần tối, gã nô bộc còn đang phân vân giữa suy nghĩ làm quân trộm cắp hay là chết đói thì gã dòm trong gác và thấy bóng một bà lão mặc kimono thấp bé, gầy gò đang lò mò đi nhổ những sợi tóc của người đã chết. Nỗi kinh hoàng dần biến mất và gã nô bộc cảm thấy căm giận bà lão. Gã nô bộc chặn lại và giữ được bàn tay yếu ớt của bà lão, biết được bà nhổ tóc người chết để kết tóc giả thì gã vừa căm giận vừa khinh bỉ.
Bà lão thì biện hộ cho hành động của mình bằng câu chuyện về những người đã chết bà vừa nhổ tóc cũng đã từng làm những việc xấu xa lúc còn sống, và bà làm vậy cũng chỉ vì không muốn chết đói. Và rồi, gã nô bộc bước đến lột phắt cái áo kimono mà bà lão đang mặc. Như thế gã nô bộc đã đi theo con đường trộm cắp để không chết đói.
Câu chuyện không chỉ là sự tranh cãi giữa bà già – tên cướp, mà đó còn là cuộc đối đầu giữa Thiện và Ác, cái thiện đang phải chịu thử thách.
Câu chuyện kết thúc với chiến thắng thuộc về cái Ác. Con người mang những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Nhưng hoàn cảnh là cái lí lẽ thuyết phục nhất đẩy người ta vào con đường của cái ác.
2. Rashomon – Sự đấu tranh và ranh giới mong manh giữa cái thiện và cái ác trong bản thể
Cổng Rashomon lấy cảm hứng từ truyện cổ trong “Truyện bây giờ đã xưa” qua câu truyện một tên trộm khám phá đống xác người chất bỏ trên lầu cổng Cổng Rashomon. Triết lý của nó là ở chỗ con người vì muốn sống còn nên phải nhúng tay vào điều ác và chỉ khi nào làm một điều ác khác thì mới chấm dứt điều ác trước đó.
Đặc sắc về nội dung: Quan niệm về thiện và ác, thiện và ác là bản chất luôn tồn tại song song trong mỗi con người.
- Đặc sắc về nghệ thuật:
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Tuýp nhân vật tự nhận thức.
Thông qua gã nô bộc và bà lão, Akutagawa đã xây dựng nên những nhân vật hoàn toàn ý thức được hành động của chính mình. Biểu hiện trong tác phẩm ta có thể thấy các nhân vật hoàn toàn ý thức được việc mình đang làm, đang nghĩ là thiện hay ác. Tuy nhiên họ lại không có con đường và lối thoát nào để thay đổi hành động của mình.
=> Xây dựng kiểu nhân vật tự nhận thức đã giúp Akutagawa xoáy sâu vào thông điệp thiện ác ông gửi gắm. Con người xấu xa hay tốt đẹp không do thế lực nào tạo nên mà do chính nhận thức của họ. Chính vì vậy, sự lên án với xã hội phong kiến suy tàn càng mạnh mẽ, con người họ bị đẩy vào bước đường cùng, phải làm việc xấu để sinh tồn.
+ Nghệ thuật xây dựng độc thoại nội tâm cho nhân vật:
Qua truyện ngắn ta có thể thấy nhân vật nô bộc được bóc tách về tính cách và hoàn cảnh thông qua độc thoại nội tâm. Những băn khoăn của hắn khi hắn quyết định đi trộm cướp hay cách hắn hành động xông ra ngăn chặn bà lão đã được tác gỉa khéo léo lồng ghép thông qua những cuộc đối thoại với chính lương tâm mình. Sự tự nhận thức của nhân vật cũng được làm rõ thông qua độc thoại nội tâm.
=> Sử dụng nghệ thuật này đã giúp Akytagawa lột tả được trọn vẹn góc khuất tăm tối nhất của con người. Nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua độc thoại nội tâm đến bây giờ vẫn là phương thức hay được các nhà văn hiện đại áp dụng (như Nam Cao, Kim Lân...)
II. Yabu no naka (Trong rừng Trúc) – Tính tương đối hiển nhiên của sự thật
1. Tóm tắt nội dung:
Toàn bộ câu chuyện là lời của các nhân chứng trong vụ án sát hại một samurai. Theo lời kể của các nhân vật, người đàn ông là samurai đi cùng vợ mình, người vợ đã đeo mạng che mặt và ngồi trên ngựa. Khi hai người đi qua tên cướp trong rừng, tên cướp đã vô tình nhìn thấy dung nhan của người vợ và nổi lên ý nghĩ chiếm đoạt. Người chồng vì tham lam nên bị lừa đến chỗ rừng sâu và bị tên cướp trói vào một gốc cây. Sau đó hắn lừa người vợ cũng vào chỗ đó và làm nhục cô ta.
Tên cướp nói rằng người chồng bị hạ thủ trong cuộc giao đấu danh dự cuối cùng giữa những người đàn ông. Người vợ thì thú nhận đã giết người chồng để chấm dứt nỗi ô nhục, đau khổ cho bản thân và cho chính người chồng. Còn phần hồn của người chồng thì một mực khẳng định là do anh ta tự sát sau khi đấu kiếm với tên cướp và chứng kiến sự phản bội của người vợ.
Còn lời khai của những người ngoài cuộc không làm sáng tỏ hay cung cấp được chi tiết nào liên quan đến vụ án, mà chỉ cho thấy được những thông tin về hình dáng, tính cách, xuất thân…
Lời khai của ca ba đều rất có lí nhưng tất cả chỉ là một phần sự thật. Các lời khai có vẻ rất khách quan song không hề đáng tin. Vì cái tôi cá nhân đã chi phối tất cả. Cái tôi khiến họ không thừa nhận bản thân yếu đuối, tham lam hay độc ác mà đều ảo tưởng mình cao thượng, tốt đẹp.
2. Yabu no naka (Trong rừng Trúc) – Tính tương đối hiển nhiên của sự thật
- Theo Kurosawa, ( Đạo diễn của bộ phim Lã sinh môn) cho rằng : truyện “Trong rừng Trúc” đi vào “sâu thẳm trái tim con người như con dao của nhà phẫu thuật, vạch trần những phức tạp u tối và xoắn mắc lạ kỳ của nó.,... “Con người không có khả năng thành thật với chính mình về bản thân họ. Họ không thể nói về chính họ mà không tô điểm. Câu chuyện miêu tả những con người như thế – loại người không thể tồn tại mà thiếu gian dối để khiến mình cảm thấy tốt hơn trong thực tế. Nó thậm chí chỉ ra rằng nhu cầu tội lỗi cần sự dối trá nịnh hót này vượt ra ngoài mộ phần – thậm chí nhân vật đã chết vẫn không thể từ bỏ những dối trá của mình khi nói với người sống qua đồng cốt. Tính vị kỷ là tội lỗi nhân loại mang bên mình từ lúc mới sinh.”
- Trong truyện Trong rừng Trúc, Ngoài 3 nhân vật chính (người chồng, người vợ, và tên cướp), Akutagawa đã thêm 4 nhân vật phụ vào nhằm khắc họa những bối cảnh cần thiết cho nghi án bỏ ngỏ về cái chết của người chồng. Ba lời kể khác nhau của tên cướp thú tội trước tòa, của người vợ sám hối trong chùa Kiyomizu, và của hồn ma người chồng tự thuật qua trung gian đồng cốt cho thấy trước pháp luật, trước các thế lực siêu nhiên, và ngay cả sau khi đã chết, con người vẫn không thể hoàn toàn khách quan và trung thực với bản thân và với những sự kiện mà họ can dự vào hay được chứng kiến.
- “Trong rừng Trúc” cũng xa gần gợi lên chủ nghĩa hoài nghi lịch sử, cũng như ở các truyện ngắn khác của Akutagawa. Mượn cớ bàn luận chuyện sống chết của nhân vật lịch sử Tây Hương Long Thịnh (1828-1877), Akutagawa đã để một nhân vật trong truyện ngắn cùng tên phát biểu như sau:“Cái gọi là sử liệu mà bạn tin tưởng dựa vào thực ra là cái gì?...Có thể nói, trên đời không có một loại sử liệu nào tuyệt đối chính xác. Khi ghi chép một loại sự thực nào đó, bất kỳ ai tất cũng đều tiến hành chọn lấy chi tiết này, hay loại bỏ chi tiết khác. Ngay cả khi không có chủ ý, sự thực cũng là thế. Xét về ý nghĩa, ký lục và sự thực khách quan cách nhau rất xa. Là như thế ư? Vậy nên, biểu hiện trên bề mặt là một sự tình nào đấy, nhưng trên thực tế hoàn toàn lại không phải là như thế. ..... Bạn hẳn cũng nên biết chuyện đó! Trên thực tế, chúng ta thậm chí không thể hiểu hết sự thể của một điều gì đó xảy ra ngay trước mắt mình.
- Với Akutagawa, sự tri nhận và lý giải một sự việc nhãn tiền cũng chỉ là phiến diện vì nó bị khúc xạ qua lăng kính chủ quan cá nhân, và hơn thế nữa, cái xảy ra trước mắt chỉ là một chóp nổi trên mặt nước của cả một khối băng ngầm mà người tiếp nhận không tài nào bao quát được hết. Tính chủ quan của chủ thể cũng giới hạn bản thân chủ thể khiến nó không thể nhận chân chính mình.
=>> Các tầng nghĩa đa dạng của “Trong rừng Trúc” thậm chí đã phong phú hơn rất nhiều khi truyện ngắn này được cải biên thành tác phẩm điện ảnh vào năm 1950.
- Lý giải bi kịch “Trong rừng rậm” bằng căn nguyên xã hội. ‘Trong hẻm núi’, tên tướng cướp đã huênh hoang trước tòa án: ‘Các người tưởng chỉ mình tôi giết người sao. Chính các người, các người đã giết bao nhiêu mạng người rồi mà đâu cần tới gươm dao! Các người đã giết người bằng quyền thế và bằng bạc tiền của các người” Lời tên cướp kết án nhà đương quyền giết người bằng quyền lực, tiền bạc, và những lời đường mật dối trá. Con người được đào luyện để giết người ấy bị bắt, bị kết án tử hình và xử tử bởi chính xã hội sản sinh ra hắn. Lời kết án của tên cướp đã được cường điệu thành chủ đề tư tưởng của phim: xã hội phi nhân sản sinh ra tội đồ và phải lãnh nhận hậu quả của chính nó. Ở đây, các tầng nghĩa khác của truyện đã chìm lắng, để riêng khía cạnh tố cáo này nổi bật.
- Cả ba cách giải thích đó về cơ bản, sự kiện không có gì thay đổi: gặp gỡ – cưỡng bức – án mạng. Song, mỗi người trình bày theo cách của mình xuất phát từ bản chất của họ. Chỉ đến lúc đỉnh điểm – khi xảy ra án mạng – thì được kể khác nhau. Trên thực tế không có gì khác biệt giữa cách giải thích của tên cướp – giết người chồng trong danh dự một cách hảo hán – với kiến giải của người chồng – đối mặt với tên cướp một cách cao thượng rồi tự sát. Còn cách giải thích của người vợ thì như sự sát hại người chồng một cách tượng trưng bằng hành vi của mình.
=>> Giá trị của truyện ngắn “ Trong rừng trúc” là ở sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Bởi mục đích cuối cùng không phải sự phán quyết, khẳng định mà là sự cảm thông, thấu hiếu đối với những phần nội tâm sâu thẳm, những tình cảm, cảm xúc rất cá nhân ở bên trong con người. Truyện ngắn cũng thể hiện được mâu thuẫn gữa con người bên trong và con người bên ngoài cũng như mâu thuẫn bên trong chính con người; sự bất lực, yếu đuổi tất yếu của con người.
Đặc sắc vê Nghệ thuật:
- Nghệ thuật trong “ Yabu no naka” ( Trong Rừng Trúc ) Từ việc mờ hóa chi tiết sẽ dẫn đến mờ hóa hệ thống cốt truyện. Nhìn trên bề mặt, rất nhiều truyện của Akutagawa vẫn rất truyền thống hoặc có vẻ rất truyền thống với đầy đủ năm bước của một cốt truyện chặt chẽ, thể hiện rõ một đặc điểm của cốt truyện từ thế kỷ XIX trở về trước. “Yabu no naka” (còn được dịch là “Trong rừng trúc”) là một tác phẩm bị mờ hóa trên nhiều phương diện. Sự sáng tạo đáng kinh ngạc của ông không chỉ ở trên phương diện nghệ thuật phân tích tâm lý, vạch rõ những vận động tâm hồn vừa kỳ lạ vừa hợp lý của nhân vật, mà còn trên nhiều phương diện nghệ thuật khác. Mờ hóa người kể chuyện và mờ hóa cốt truyện là nét hấp dẫn nhất của tác phẩm này. Cốt truyện được phân rã thành bảy phần với một câu chuyện được kể lại thành bảy câu chuyện do bảy người tham gia kể chuyện và tất cả đều đồng đẳng, cùng tồn tại như bảy mảnh vỡ của cốt truyện. Bảy mảnh vỡ đó lại được kết cấu theo một trình tự đảo lộn như một thước phim quay ngược. Nhân chứng kể trước, thủ phạm và nạn nhân kể sau. Sự đổ vỡ ấy là do người kể chuyện thứ tám vô hình sắp đặt. Kết thúc của tác phẩm cuối cùng vẫn là một kết thúc mở. Mở ở đây cần hiểu là sự mơ hồ, không rõ ràng về sự kiện, chứ không phải là không có kết thúc vì sự việc đã được kết thúc từ khi tác phẩm bắt đầu như một kết cấu truyền thống của kịch Noh. Rốt cuộc thì tại sao người chồng chết? Vì bị tên cướp hạ thủ trong cuộc đấu danh dự cuối cùng của người samurai theo lời khai của tên tướng cướp? Chết do tay người vợ để chấm dứt nỗi đau ô nhục của bản thân và của người chồng? Hay anh ta chết bởi chính tay mình như lời hồn đã khẳng định là đối mặt, đấu kiếm và tự sát một cách anh hùng mã thượng dù trong bất kỳ cảnh ngộ bi đát nào?
- Người kể chuyện càng đông, càng nhiều điểm nhìn thì sự kiện càng bị mờ hóa, câu chuyện càng rối rắm. Hồ sơ vụ án không bao giờ khép lại, vụ án này mãi mãi là một nghi án làm đau đầu người đọc và day dứt lòng người. Đây là một dấu ấn đậm nét của tự sự học hậu hiện đại. Tác phẩm đã phá vỡ quan niệm tự sự truyền thống về vai trò người kể truyện. "Vậy là người kể chuyện đã dẫn người đọc vào một cuộc phiêu lưu cách kể, sự kể chứ không phải là cuộc phiêu lưu của vụ án (cốt truyện). Các lý thuyết gia hậu hiện đại cũng nhấn mạnh quá trình kể chuyện hơn là tìm kiếm chân lý.
- Akutagawa còn mờ hóa cả người nghe chuyện nữa! Trong “”, quan kiểm sát nào đó là người nghe chuyện với tư cách là người điều tra vụ án. Trừ lời khai của bảy người kể chuyện xưng tôi chỉ có hai người kể theo hình thức độc thoại là người vợ (đang mất tích) và người chồng (đã chết); còn lại đều ở hình thức đối thoại trước tòa với quan kiểm sát. Nhưng nhân vật quan kiểm sát không hề có phát ngôn hội thoại trực tiếp mà chỉ gián tiếp trong lời trực tiếp của từng người khai. Và có lẽ vì đây là một phiên tòa nên hình như còn nhiều người nghe khác tham dự nữa. Ta biết được điều đó vì tên cướp tám lần gọi người đối thoại ngôi 2 bằng từ “các người” như một lời nửa phân trần, nửa mỉa mai đầy ngạo mạn. Đến lời khai cuối cùng mang tính chất độc thoại của hồn người chồng đã chết, người nghe chuyện trực tiếp hoàn toàn biến mất, trở thành số không.
C. Kết luận
Hai tác phẩm đã đem đến cái nhìn nhiều chiều về nhân sinh, Vê cái thiện và cái ác trong bản thể, về sự thật giả ở đời. Hai tiểu thuyết “ Lã sinh môn” và “ Trong rừng trúc” nói riêng và Truyện ngắn của Akutagawa nói chung là một sự kết hợp, tiếp nối tài hoa và kỳ lạ giữa những yếu tố truyền thống và những yếu tố hiện đại trong cách viết, cách kể đầy sáng tạo. Từ sự mờ hóa, sự phân mảnh trong thể loại, kết cấu, cốt truyện, nhân vật, nghệ thuật trần thuật đến ngôn ngữ giễu nhại, nghệ thuật nghịch dị, chất hài hước đen, yếu tố kỳ ảo.., truyện ngắn của ông vừa quen vừa lạ, vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa hiện thực vừa kỳ ảo... đã làm chấn động văn đàn châu Á một thời và mãi mãi.
Nội dung liên quan
Hải Thông