Trợ cấp thôi việc

  1. Kỹ năng mềm

Từ khóa: 

kỹ năng mềm

- Khi chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động phải chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, trừ các trường hợp sau: + Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi. + Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải. + Người lao động bị mất việc làm do doanh nghiệp thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã. - Mức trợ cấp thôi việc: Mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương. - Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc. - Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động từ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc. Trong đó: + Thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm: Thời gian người lao động đã làm việc cho người sử dụng lao động; thời gian thử việc, học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động; thời gian được người sử dụng lao động cử đi học; thời gian nghỉ hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội; thời gian nghỉ hằng tuần, nghỉ việc hưởng nguyên lương; thời gian nghỉ để hoạt động công đoàn theo quy định của pháp luật về công đoàn; thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao động; thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc và thời gian bị tạm giữ, tạm giam nhưng được trở lại làm việc do được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận không phạm tội; + Thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: Thời gian người sử dụng lao động đã đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật và thời gian người sử dụng lao động đã chi trả cùng lúc với kỳ trả lương của người lao động một khoản tiền tương đương với mức đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật; Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm của người lao động được tính theo năm (đủ 12 tháng), trường hợp có tháng lẻ thì từ đủ 01 tháng đến dưới 06 tháng được tính bằng ½ năm; từ đủ 06 tháng trở lên được tính bằng 1 năm làm việc. Lưu ý: Bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện từ 1/1/2009. Do vậy, trên thực tế thì người lao động bắt đầu làm việc sau ngày 1/1/2009 thì sẽ không được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc mà chỉ được hưởng trợ cấp thất nghiệp từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp. Căn cứ pháp lý: Điều 48 – Bộ luật Lao động năm 2012, Nghị định số 05/2015/NĐ-CP Tình huống thực tế: Anh A ký hợp đồng không xác định thời hạn với Công ty H ở Hà Nội với công việc là nhân viên kỹ thuật từ tháng 1/2006 với tiền lương mỗi tháng theo hợp đồng là 4.5000.000 đồng. Do Công ty H chuyển trụ sở vào Hồ Chí Minh, anh Hoàng không thể theo Công ty vào đó làm việc nên 2 bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng vào tháng 10/2012. Anh A tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp vào tháng 1/2009. Như vậy, khi chấm dứt hợp đồng với công ty H, anh A được Công ty H chi trả trợ cấp thôi việc là: 3 năm x 4.500.000 đồng/ tháng x 50% = 6.750.000 đồng (Thời gian tính trợ cấp thôi việc là từ 1/2006 đến 1/2009 = 3 năm; Tiền lương tính trợ cấp thôi việc là: 4.500.000 đồng) Đến tháng 4/2013, Công ty H có mở chi nhánh tại Hà Nội và tiếp tục mời anh A đến làm việc và ký hợp đồng không xác định thời hạn với anh A, mức lương theo hợp đồng là 7.000.000 đồng/ tháng. Đến tháng 10/2013, chi nhánh công ty H ở Hà Nội, nơi anh A làm việc bị cháy rụi hoàn toàn. Công ty H buộc phải đóng cửa chi nhánh này và cho toàn bộ nhân viên tại chi nhánh này thôi việc, trong đó có anh A. Do thời gian từ tháng 4/2013 đến tháng 10/2013 anh A đóng bảo hiểm thất nghiệp và tháng 10/2012 anh A đã nhận trợ cấp thôi việc của công ty H, nên thời gian làm việc của anh A để hưởng trợ cấp thôi việc là 0. Do vậy, công ty H không có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho thời gian làm việc này của anh A.
Trả lời
- Khi chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động phải chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, trừ các trường hợp sau: + Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi. + Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải. + Người lao động bị mất việc làm do doanh nghiệp thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã. - Mức trợ cấp thôi việc: Mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương. - Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc. - Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động từ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc. Trong đó: + Thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm: Thời gian người lao động đã làm việc cho người sử dụng lao động; thời gian thử việc, học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động; thời gian được người sử dụng lao động cử đi học; thời gian nghỉ hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội; thời gian nghỉ hằng tuần, nghỉ việc hưởng nguyên lương; thời gian nghỉ để hoạt động công đoàn theo quy định của pháp luật về công đoàn; thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao động; thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc và thời gian bị tạm giữ, tạm giam nhưng được trở lại làm việc do được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận không phạm tội; + Thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: Thời gian người sử dụng lao động đã đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật và thời gian người sử dụng lao động đã chi trả cùng lúc với kỳ trả lương của người lao động một khoản tiền tương đương với mức đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật; Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm của người lao động được tính theo năm (đủ 12 tháng), trường hợp có tháng lẻ thì từ đủ 01 tháng đến dưới 06 tháng được tính bằng ½ năm; từ đủ 06 tháng trở lên được tính bằng 1 năm làm việc. Lưu ý: Bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện từ 1/1/2009. Do vậy, trên thực tế thì người lao động bắt đầu làm việc sau ngày 1/1/2009 thì sẽ không được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc mà chỉ được hưởng trợ cấp thất nghiệp từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp. Căn cứ pháp lý: Điều 48 – Bộ luật Lao động năm 2012, Nghị định số 05/2015/NĐ-CP Tình huống thực tế: Anh A ký hợp đồng không xác định thời hạn với Công ty H ở Hà Nội với công việc là nhân viên kỹ thuật từ tháng 1/2006 với tiền lương mỗi tháng theo hợp đồng là 4.5000.000 đồng. Do Công ty H chuyển trụ sở vào Hồ Chí Minh, anh Hoàng không thể theo Công ty vào đó làm việc nên 2 bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng vào tháng 10/2012. Anh A tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp vào tháng 1/2009. Như vậy, khi chấm dứt hợp đồng với công ty H, anh A được Công ty H chi trả trợ cấp thôi việc là: 3 năm x 4.500.000 đồng/ tháng x 50% = 6.750.000 đồng (Thời gian tính trợ cấp thôi việc là từ 1/2006 đến 1/2009 = 3 năm; Tiền lương tính trợ cấp thôi việc là: 4.500.000 đồng) Đến tháng 4/2013, Công ty H có mở chi nhánh tại Hà Nội và tiếp tục mời anh A đến làm việc và ký hợp đồng không xác định thời hạn với anh A, mức lương theo hợp đồng là 7.000.000 đồng/ tháng. Đến tháng 10/2013, chi nhánh công ty H ở Hà Nội, nơi anh A làm việc bị cháy rụi hoàn toàn. Công ty H buộc phải đóng cửa chi nhánh này và cho toàn bộ nhân viên tại chi nhánh này thôi việc, trong đó có anh A. Do thời gian từ tháng 4/2013 đến tháng 10/2013 anh A đóng bảo hiểm thất nghiệp và tháng 10/2012 anh A đã nhận trợ cấp thôi việc của công ty H, nên thời gian làm việc của anh A để hưởng trợ cấp thôi việc là 0. Do vậy, công ty H không có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho thời gian làm việc này của anh A.