Tháng 7 Mưa ngâu - Mùa "Ân tình - Nghĩa cảm"
Mỗi năm khi tiết trời vào tháng 7 âm lịch, mùa mưa ngâu, người Việt ta lại một lòng hướng về tổ tiên, với các tăng ni Phật tử, tháng 7 có một đại lễ lớn mang tên Vu Lan báo hiếu…
Đây là đại lễ báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất, tập tục đáng quý trọng của người Việt thể hiện sâu sắc tấm lòng, truyền thống “ăn quả nhớ người trồng cây” của người Việt ta từ bao đời này nay. Rằm tháng 7 âm lịch cũng là ngày "xá tội vong nhân" mà chúng ta hay gọi là ngày "cúng chúng sinh", vì thế tháng 7 âm lịch còn được gọi là "tháng cô hồn". Đi cùng với những ý nghĩa và giá trị to lớn của đạo Phật, tháng 7 âm lịch còn mang màu sắc huyền bí của sự tích cầu Ô thước về ông Ngâu bà Ngâu hay còn gọi là sự tích Ngưu Lang – Chức Nữ.
“ Mẹ bảo rằng, mưa Ngâu là Trời khóc,
Khi Ngưu Lang và ChứcNữ gặp nhau.
Ba trăm sáu mươi lăm ngày cách biệt,
Sông Ngân Hà vốn rất rộng… rất sâu…”.
“Bông hồng cài áo” ngày lễ Vu Lan
Theo Phật thoại: Tôn giả Mục Kiền Liên là một trong số ít đệ tử xuất chúng của Ðức Phật. Ngài có quyền pháp vô biên. Mẹ ngài là bà Thanh Đề đã qua đời, ngài dùng tuệ nhãn quan sát tìm mẹ khắp “bốn phương tám hướng”. Ngài thấy mẹ mình đang chịu cảnh tội đồ, là quỷ đói trong ngục A tỳ, thân thể gầy héo, xanh xao, chỉ còn da bọc xương, khổ đau khôn thể tả xiết.
Dù biết đó là do kết quả của thói tham lam, độc ác, sự dối trá từ thuở sinh thời mẹ đã gây nên, nhưng ngài vẫn không khỏi thương xót. Dùng pháp thuật của mình, Tôn giả Mục Kiền Liên mang cơm dâng lên mẹ. Nhưng, do nghiệp quá lớn nên bát cơm bà Thanh Ðề cầm trên tay bỗng hoá thành than đỏ.
Chứng kiến cảnh tượng ấy, ngài rất đau lòng, về bạch lại với Phật, mong Ðức Phật cứu vớt để linh hồn mẹ ngài được siêu thoát. Cảm động trước tấm lòng hiếu nghĩa của Tôn giả Mục Kiền Liên, Ðức Phật đã chỉ cách để Ngài có thể cứu vớt được mẹ ra khỏi cảnh đoạ đầy.
Ðức Phật nói: “Ông tuy quyền phép vô biên, lại hiếu thảo hơn người, tấm lòng của ông làm cảm động cả trời đất nhưng nghiệp chướng của mẹ ông quá nặng, một mình ông không thể cứu được mẹ. Ðến ngày rằm tháng bảy, Chư Phật hoan hỉ, Chư Tăng tự tứ, hãy sửa soạn lễ vật cúng dàng, thành tâm thỉnh cầu Chư Tăng chú nguyện thì mẹ ông mới có thể siêu thoát được”.
Theo lời Phật dạy, nhằm ngày Rằm tháng Bảy, Tôn giả Mục Kiền Liên lập bồn Vu Lan (chậu đựng đồ lễ cúng dàng), thỉnh mời Chư Tăng đến chú nguyện. Nhờ đó bà Thanh Ðề mới được siêu thoát. Các vong linh khác cũng nhờ phúc lành của Chư Tăng mà được siêu thoát theo.
Noi gương hiếu đễ của Tôn giả Mục Kiền Liên, cứ đến ngày rằm tháng bảy hàng năm các tín đồ, Phật tử khắp nơi lại tưng bừng tổ chức ngày lễ Vu Lan với tín tâm cầu cha mẹ, ông bà, tổ tiên mình sẽ được thoát khỏi nghiệp chướng khi còn sống.
Lễ Vu Lan là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo. Đây là đại lễ báo hiếu ông bà, cha mẹ, tổ tiên - một tập tục đáng quý của người Việt. Và cứ vào mỗi dịp Vu Lan, người ta lại cài bông hồng lên áo, để tưởng niệm cũng như bày tỏ sự hiếu kính biết ơn.
"Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa", tản văn “Bông hồng cài áo” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Sự tích ngày xá tội vong nhân
Nhiều người vẫn nhầm tưởng đại lễ Vu Lan và ngày xá tội vong nhân là một, nhưng nếu tìm hiểu sâu sẽ thấy lễ cúng cô hồn mang những tích khác biệt. Lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn là hai lễ cúng khác nhau. Một đằng thì liên quan đến chuyện ông Mục Kiền Liên, một đằng lại liên quan đến chuyện ông A Nan. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ và ông bà bảy đời, một đằng là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. Một đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước.
Sự tích bắt đầu từ câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: “Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên”.
A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Đức Phật bèn đặt cho bài chú gọi là “Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni”, đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là "phóng diệm khẩu", tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa. Nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và gọi là "cúng cô hồn," tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái.
Vì vậy, ngày nay mới có câu: “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”. Từ đó tập tục cúng cô hồn vào rằm tháng 7 trở thành điều không thể thiếu trong đời sống ngày nay, chúng ta tích cực làm phước, giúp những cô hồn vất vưởng sớm siêu hanh, thoát khổ, thoát đói, cũng mong mang lại những điều phúc lành, tốt đẹp trong cuộc sống.
Ngưu Lang – Chức Nữ và cầu Ô Thước
“ Ngưu Lang – Chức Nữ trên đời
Yêu nhau nước mắt đầy vơi Ngân hà
Dầm dề tháng bảy mưa sa
Mưa từ cổ tích mưa ra cuộc đời…”
Tương truyền, Ngọc Hoàng có một vị thần chăn trâu tên Ngưu Lang vì say mê nhan sắc của một người phụ nữ phụ trách việc dệt vải tên Chức Nữ mà trễ nải công việc, để trâu đi lạc vào đền Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì say đắm tiếng tiêu của Ngưu Lang mà bỏ bê việc dệt vải. Ngọc Hoàng nổi giận đã vạch ra dòng sông rộng tên là sông Ngân rồi buộc mỗi người về một đầu sông.
Họ nhìn nhau qua dòng sông thần rộng mênh mông, nước mắt ngập tràn, mong mỏi được đến bên nhau nhưng bị ngăn cấm. Tình yêu vĩ đại của Ngưu Lang, Chức Nữ khiến Ngọc Hoàng cảm động. Thương tình, ngài cho phép họ mỗi năm được gặp nhau một lần vào đêm mùng 7 tháng 7 (âm lịch). Cũng từ đó, ngày 7/7 âm lịch còn được gọi là ngày Ngưu Lang - Chức Nữ. Cây cầu đưa họ tới với nhau được gọi là cầu Ô Thước, vì thế người ta còn gọi đó là tích cầu Ô Thước.
Xa cách nghìn trùng, mỗi năm chỉ được gặp một lần nên khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang, Chức Nữ khóc rất nhiều. Nước mắt của họ rơi xuống trần gian tạo thành những cơn mưa dài không dứt mà sau này dân gian gọi là "mưa ngâu". Từ đó, Ngưu Lang, Chức Nữ cũng được gọi với tên khác là ông Ngâu, bà Ngâu.
Kết
Mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, cứ thế tháng 7 mưa ngâu hằng năm luôn là tháng truyền thống " ân tình, nghĩa cảm" của nhân dân ta. Một tấm lòng trong vạn tấm lòng bao dung - một nét đẹp trong văn hoá dân tộc Việt đã được gìn giữ bao đời nay.
Lê Minh Hưng