Người ta thường nói nước ta trải qua 1.000 năm Bắc thuộc, vậy là từ năm nào đến năm nào?

  1. Kiến thức chung

Từ khóa: 

kiến thức chung

Thời kỳ Bắc thuộc, theo Bách khoa tri thức học sinh, thì là thời gian từ năm 179 trước Công nguyên (CN) đến năm 905. Theo tác giả Nguyễn Khắc Thuận (www.quehuong.org.vn) thì có thể kể đến các mốc lịch sử sau đây: • Năm 208 trước CN, nhà Tần sụp đổ, một viên tướng cũ của nhà Tần là Triệu Đà đã chiếm cứ vùng Lĩnh Nam và lập ra nước Nam Việt (vào năm 206 trước CN). • Ngay sau khi lập được nước Nam Việt, Triệu Đà đã liên tục đem quân đến đánh Âu Lạc. Năm 179 trước CN, Âu lạc bị Triệu Đà thôn tính và đô hộ • Nam Việt thống trị là từ năm 179 trước CN đến năm 111 trước CN, tổng cộng là 68 năm với năm đời vua nối nhau trị vị là: - Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), làm vua từ năm 206 trước CN đến nãm 137 trước CN. - Triệu Văn Vương (Triệu Hồ), làm vua từ năm 136 trước CN đến năm 125 trước CN. - Triệu Minh Vương (Triệu Anh Tề), làm vua từ năm 124 trước CN đến năm 113 trước CN. - Triệu Ai Vương (Triệu Hưng) làm vua năm 112 trước CN. - Triệu Thuật Dương Vương (Triệu Kiến Đức), làm vua năm 111 trước CN. Năm 206 trước CN, khi nhà Tần sụp đổ, nếu ở vùng Lĩnh Nam, Triệu Đà lập ra nước Nam Việt, thì ở vùng trung nguyên của Trung Quốc, Lưu Bang cũng lập ra một triều đại mới, đó là nhà Hán. • Nam 111 trước CN, nhà Hán đã thôn tính được Nam Việt và thay thế Nam Việt đô hộ nước ta. Lịch sử nhà Hán bao gồm hai giai đoạn khác nhau. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ khi Lưu Bang lên ngôi Hoàng Đế (Hán Cao Tổ) đến năm thứ 8 sau CN. Giai đoạn này sử gọi là thời Tiền Hán hay thời Tây Hán. Từ năm thứ 8 đến năm thứ 25, loạn Vương Mãng đã làm cho nền thống trị của nhà Hán bị gián oạn một thời gian ngắn. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ khi Lưu Tú lên ngôi Hoàng Đế (Hán Quang Võ) đến năm 220. Giai đoạn này sử gọi là thời Hậu Hán hay thời Đông Hán. Cũng có khi, sử gộp chung, gọi cả hai giai đoạn này là thời Lưỡng Hán. • Thời Lưỡng Hán, có tất cà 42 viên quan được cử sang làm đô hộ ở nước ta. • Cuối thế kị thứ II, nhà Hán sụp đổ, các thế lực cát cứ nổi lên xâu xé lẫn nhau. Đầu thế kỉ thứ III, Trung Quóc bước vào thời kì hỗn chiến tương tàn của ba nước là Ngô, Thục và Ngụy. Sử gọi đó là thời Tam Quốc. Thời này, nhà Ngô thống trị nước ta. • Trên danh nghĩa, nhà Ngô thống trị nước ta từ năm 220 đến nãm 280. Trong thời gian đó, 31 viên quan đã được cử sang làm đô hộ. • Năm 280, nhà Tần thống nhất được Trung Quốc, và cũng từ năm đó, nhà Tần thay nhà Ngô thống trị nước ta. • Nhà Tần tồn tại tổng cộng 140 năm (từ năm 280 đến năm 420). Trong thời gian này, 22 viên quan của nhà Tần đã được cử sang làm đô hộ nước ta. • Đầu thế kỉ thứ V, Trung Quốc lại lâm vào tình trạng hỗn chiến cát cứ mới, sử gọi đó là Thời Nam - Bắc Triều. Trong thời kì này, Nam Triều thống trị nước ta. Nền thống trị của Nam Triều bắt đầu từ năm 420 đến nàm 542. Năm này, Lý - Bí (tức là Lý Bôn) đxa khởi nghĩa vá giành được thắng lợi, lập ra nước Vạn Xuân. • Trong 122 năm thống trị, Nam Triều đã lần lượt đưa sang 25 viên quan làm đô hộ ở nước ta. • Năm 581, nhà Tùy được thành lập ở Trung Quốc. Năm 602 nhà Tùy tấn công xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến chống xâm lăng do Lý Phật Tử lãnh đạo đã nhanh chóng bị thất bại. Nhà Tùy đô hộ nước ta từ năm 602 đến năm 618. • Năm 618, nhà Đường lật đổ nhà Tùy và thay nhà Tùy đô hộ nước ta. Ách đô hộ của nhà Đưởng kéo dài từ năm 618 đến năm 905, mặc dù trên danh nghĩa, phải đến năm 907 nhà Đường mới bị diệt vong hoàn toàn. • Nhà Tùy thống trị nước ta chỉ có 16 năm, và điều đáng nói là dấu ấn để lại không có gì sâu sắc, bởi vậy, sử vẫn gộp với nhà Đường mà gọi chung là thời thuộc Tùy – Đường. • Trong thời gian thống trị kéo dài tổng cộng 303 năm, nhà Tùy và nhà Đường đà đưa 64 viên quan sang làm đô hộ ở nước ta. • Năm 905 Khúc Thừa Dụ lãnh đạo nhân dân đánh đuổi bọn quan lại đô hộ toàn thắng và mở đầu thời kỳ giành quyền tự chủ. Sau khi ông mất con là Khúc Hạo lên nắm quyền. Sau khi Khúc Hạo mất thì con là Khúc Thừa Mỹ làm kế nghiệp. Phải kể đến hai mốc khác giành lại quyền tự chù: Năm 931 Dương Đinh Nghệ khởi nghĩa và năm 938 Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán.
Trả lời
Thời kỳ Bắc thuộc, theo Bách khoa tri thức học sinh, thì là thời gian từ năm 179 trước Công nguyên (CN) đến năm 905. Theo tác giả Nguyễn Khắc Thuận (www.quehuong.org.vn) thì có thể kể đến các mốc lịch sử sau đây: • Năm 208 trước CN, nhà Tần sụp đổ, một viên tướng cũ của nhà Tần là Triệu Đà đã chiếm cứ vùng Lĩnh Nam và lập ra nước Nam Việt (vào năm 206 trước CN). • Ngay sau khi lập được nước Nam Việt, Triệu Đà đã liên tục đem quân đến đánh Âu Lạc. Năm 179 trước CN, Âu lạc bị Triệu Đà thôn tính và đô hộ • Nam Việt thống trị là từ năm 179 trước CN đến năm 111 trước CN, tổng cộng là 68 năm với năm đời vua nối nhau trị vị là: - Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), làm vua từ năm 206 trước CN đến nãm 137 trước CN. - Triệu Văn Vương (Triệu Hồ), làm vua từ năm 136 trước CN đến năm 125 trước CN. - Triệu Minh Vương (Triệu Anh Tề), làm vua từ năm 124 trước CN đến năm 113 trước CN. - Triệu Ai Vương (Triệu Hưng) làm vua năm 112 trước CN. - Triệu Thuật Dương Vương (Triệu Kiến Đức), làm vua năm 111 trước CN. Năm 206 trước CN, khi nhà Tần sụp đổ, nếu ở vùng Lĩnh Nam, Triệu Đà lập ra nước Nam Việt, thì ở vùng trung nguyên của Trung Quốc, Lưu Bang cũng lập ra một triều đại mới, đó là nhà Hán. • Nam 111 trước CN, nhà Hán đã thôn tính được Nam Việt và thay thế Nam Việt đô hộ nước ta. Lịch sử nhà Hán bao gồm hai giai đoạn khác nhau. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ khi Lưu Bang lên ngôi Hoàng Đế (Hán Cao Tổ) đến năm thứ 8 sau CN. Giai đoạn này sử gọi là thời Tiền Hán hay thời Tây Hán. Từ năm thứ 8 đến năm thứ 25, loạn Vương Mãng đã làm cho nền thống trị của nhà Hán bị gián oạn một thời gian ngắn. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ khi Lưu Tú lên ngôi Hoàng Đế (Hán Quang Võ) đến năm 220. Giai đoạn này sử gọi là thời Hậu Hán hay thời Đông Hán. Cũng có khi, sử gộp chung, gọi cả hai giai đoạn này là thời Lưỡng Hán. • Thời Lưỡng Hán, có tất cà 42 viên quan được cử sang làm đô hộ ở nước ta. • Cuối thế kị thứ II, nhà Hán sụp đổ, các thế lực cát cứ nổi lên xâu xé lẫn nhau. Đầu thế kỉ thứ III, Trung Quóc bước vào thời kì hỗn chiến tương tàn của ba nước là Ngô, Thục và Ngụy. Sử gọi đó là thời Tam Quốc. Thời này, nhà Ngô thống trị nước ta. • Trên danh nghĩa, nhà Ngô thống trị nước ta từ năm 220 đến nãm 280. Trong thời gian đó, 31 viên quan đã được cử sang làm đô hộ. • Năm 280, nhà Tần thống nhất được Trung Quốc, và cũng từ năm đó, nhà Tần thay nhà Ngô thống trị nước ta. • Nhà Tần tồn tại tổng cộng 140 năm (từ năm 280 đến năm 420). Trong thời gian này, 22 viên quan của nhà Tần đã được cử sang làm đô hộ nước ta. • Đầu thế kỉ thứ V, Trung Quốc lại lâm vào tình trạng hỗn chiến cát cứ mới, sử gọi đó là Thời Nam - Bắc Triều. Trong thời kì này, Nam Triều thống trị nước ta. Nền thống trị của Nam Triều bắt đầu từ năm 420 đến nàm 542. Năm này, Lý - Bí (tức là Lý Bôn) đxa khởi nghĩa vá giành được thắng lợi, lập ra nước Vạn Xuân. • Trong 122 năm thống trị, Nam Triều đã lần lượt đưa sang 25 viên quan làm đô hộ ở nước ta. • Năm 581, nhà Tùy được thành lập ở Trung Quốc. Năm 602 nhà Tùy tấn công xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến chống xâm lăng do Lý Phật Tử lãnh đạo đã nhanh chóng bị thất bại. Nhà Tùy đô hộ nước ta từ năm 602 đến năm 618. • Năm 618, nhà Đường lật đổ nhà Tùy và thay nhà Tùy đô hộ nước ta. Ách đô hộ của nhà Đưởng kéo dài từ năm 618 đến năm 905, mặc dù trên danh nghĩa, phải đến năm 907 nhà Đường mới bị diệt vong hoàn toàn. • Nhà Tùy thống trị nước ta chỉ có 16 năm, và điều đáng nói là dấu ấn để lại không có gì sâu sắc, bởi vậy, sử vẫn gộp với nhà Đường mà gọi chung là thời thuộc Tùy – Đường. • Trong thời gian thống trị kéo dài tổng cộng 303 năm, nhà Tùy và nhà Đường đà đưa 64 viên quan sang làm đô hộ ở nước ta. • Năm 905 Khúc Thừa Dụ lãnh đạo nhân dân đánh đuổi bọn quan lại đô hộ toàn thắng và mở đầu thời kỳ giành quyền tự chủ. Sau khi ông mất con là Khúc Hạo lên nắm quyền. Sau khi Khúc Hạo mất thì con là Khúc Thừa Mỹ làm kế nghiệp. Phải kể đến hai mốc khác giành lại quyền tự chù: Năm 931 Dương Đinh Nghệ khởi nghĩa và năm 938 Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán.