Người phụ nữ nào vinh dự được cử làm đại diện Việt Nam đến hội nghị Paris năm 1973?

  1. Hỏi xoáy Đáp hay

Tại Hội nghị Paris năm ấy vẫn được nhân dân Việt Nam và thế giới nhắc đến với lòng ngưỡng mộ về một người phụ nữ xinh đẹp, thông minh và đầy bản lĩnh khi đấu tranh trên nghị trường. Vậy, bạn có biết người phụ nữ đó là ai không ? Nếu có thể thì giới thiệu những nét nổi bật cuả người phụ nữ ấy để mọi người cùng biết nhé !

Từ khóa: 

tinh hoa việt nam

,

lịch sử

,

hội nghị paris

,

hỏi xoáy đáp hay

Ngày 27-01-1973 tại Pa-ri, “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh ngoại giao cam go, lâu dài nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, với 202 phiên họp chung công khai, 24 cuộc tiếp xúc riêng trong thời gian 4 năm 9 tháng (từ 13-5-1968 - 27-01-1973). Trong quá trình đàm phán đó, cả thế giới đều rất ngưỡng mộ và khâm phục ý chí kiên định, sự mềm dẻo, nhạy bén của nhà nữ ngoại giao xuất sắc - Nguyễn Thị Bình - người con của quê hương Quảng Nam.

Bà Nguyễn Thị Bình, tên thật Nguyễn Châu Sa, sinh ngày 26-5-1927, tại làng La Kham, Điện Quang, Điện Bàn, Quảng Nam, trong một gia đình có truyền thống cách mạng: ông nội là nghĩa binh trong phong trào Cần vương, chiến đấu và hy sinh tại quê nhà, ông ngoại là nhà chí sỹ yêu nước Phan Châu Trinh.

Từ nhỏ, Nguyễn Thị Bình theo học tại trường Lycee Sisowath ở thành phố Phnôm-Pênh, thủ đô Cam-pu-chia và tốt nghiệp tú tài tại đây. Năm 1945, vừa thi hết Tú tài phần I, Nguyễn Thị Bình bắt đầu hoạt động yêu nước trong các phong trào học sinh, sinh viên, phụ nữ yêu nước, vận động trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn. 

  • Năm 1948, bà được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương 
  • Năm 1951, bà bị thực dân Pháp bắt giam và bị tra khảo tại bót Catinat, sau đó bị giam ở Khám Lớn rồi nhà lao Chí Hòa (1951-1953). 
  • Năm 1954, bà ra tù và tham gia luôn vào phong trào hoà bình đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ.
  • Năm 1955, bà được điều ra Bắc tập kết và được đào tạo thêm theo chương trình bồi dưỡng cán bộ đặc biệt.
  • Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Năm 1962, bà được điều trở lại miền Nam với cái tên mới là Nguyễn Thị Bình, giữ chức vụ Ủy viên Trung ương Mặt trận Giải phóng, hoạt động ở mảng đối ngoại, kiêm Phó tổng thư ký Hội Phụ nữ Giải phóng. 
  • Cuối năm 1968, bà được cử làm Trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận Giải phóng sang Paris dự Hội nghị Paris về Việt Nam.
  • Ngày 6 tháng 6 năm 1969, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, bà được cử làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Sau đó bà lại trở sang Paris đảm nhận lại chức vụ Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ lâm thời. Trong suốt thời gian 1968-1972, bà nổi tiếng trong các cuộc họp báo tại hội nghị 4 bên tại Paris, với phong cách ngoại giao lịch lãm và duyên dáng, và được giới truyền thông đặt cho biệt hiệu "Madame Bình". 
  • Ngày 27/01/1973, Hiệp định Paris được ký kết. Bà là người đại diện của Cộng hòa miền Nam Việt Nam, một trong bốn bên ký vào bản Hiệp định.
  • Sau khi đất nước thống nhất, bà làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1976-1987), rồi Phó trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng (1987-1992). Bà còn là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá V (03/1982-1986), Đại biểu Quốc hội từ khoá VI đến khoá X (1976-2002).  
  • Năm 1992, tại kỳ họp Quốc hội khóa IX, bà được bầu làm Phó chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và giữ chức vụ này liên tục trong 10 năm (1992-2002). Bà là người phụ nữ Việt Nam thứ hai giữ chức vụ phó nguyên thủ 4 và là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên giữ chức vụ Phó chủ tịch nước. 

  • Sau khi nghỉ hưu vào năm 2002, bà tiếp tục làm Chủ tịch của Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam. Năm 2003, bà thành lập Quỹ Hòa bình và phát triển Việt Nam và làm Chủ tịch của tổ chức này cho đến nay. Ngoài ra, bà cũng là Chủ tịch danh dự của Hội nạn nhân chất độc da cam/đioxin Việt Nam kể từ khi hội này được thành lập vào tháng 1/2004. Năm 2001, Chủ tịch nước Trần Đức Lương trao tặng cho bà Huân chương Hồ Chí Minh để ghi nhận những công lao to lớn của bà đối với Đảng và Nhà nước.
  • KL: Sự đóng góp của vị “sứ giả hòa bình” Nguyễn Thị Bình vẫn là biểu tượng sáng ngời về phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.

Trả lời

Ngày 27-01-1973 tại Pa-ri, “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh ngoại giao cam go, lâu dài nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, với 202 phiên họp chung công khai, 24 cuộc tiếp xúc riêng trong thời gian 4 năm 9 tháng (từ 13-5-1968 - 27-01-1973). Trong quá trình đàm phán đó, cả thế giới đều rất ngưỡng mộ và khâm phục ý chí kiên định, sự mềm dẻo, nhạy bén của nhà nữ ngoại giao xuất sắc - Nguyễn Thị Bình - người con của quê hương Quảng Nam.

Bà Nguyễn Thị Bình, tên thật Nguyễn Châu Sa, sinh ngày 26-5-1927, tại làng La Kham, Điện Quang, Điện Bàn, Quảng Nam, trong một gia đình có truyền thống cách mạng: ông nội là nghĩa binh trong phong trào Cần vương, chiến đấu và hy sinh tại quê nhà, ông ngoại là nhà chí sỹ yêu nước Phan Châu Trinh.

Từ nhỏ, Nguyễn Thị Bình theo học tại trường Lycee Sisowath ở thành phố Phnôm-Pênh, thủ đô Cam-pu-chia và tốt nghiệp tú tài tại đây. Năm 1945, vừa thi hết Tú tài phần I, Nguyễn Thị Bình bắt đầu hoạt động yêu nước trong các phong trào học sinh, sinh viên, phụ nữ yêu nước, vận động trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn. 

  • Năm 1948, bà được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương 
  • Năm 1951, bà bị thực dân Pháp bắt giam và bị tra khảo tại bót Catinat, sau đó bị giam ở Khám Lớn rồi nhà lao Chí Hòa (1951-1953). 
  • Năm 1954, bà ra tù và tham gia luôn vào phong trào hoà bình đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ.
  • Năm 1955, bà được điều ra Bắc tập kết và được đào tạo thêm theo chương trình bồi dưỡng cán bộ đặc biệt.
  • Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Năm 1962, bà được điều trở lại miền Nam với cái tên mới là Nguyễn Thị Bình, giữ chức vụ Ủy viên Trung ương Mặt trận Giải phóng, hoạt động ở mảng đối ngoại, kiêm Phó tổng thư ký Hội Phụ nữ Giải phóng. 
  • Cuối năm 1968, bà được cử làm Trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận Giải phóng sang Paris dự Hội nghị Paris về Việt Nam.
  • Ngày 6 tháng 6 năm 1969, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, bà được cử làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Sau đó bà lại trở sang Paris đảm nhận lại chức vụ Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ lâm thời. Trong suốt thời gian 1968-1972, bà nổi tiếng trong các cuộc họp báo tại hội nghị 4 bên tại Paris, với phong cách ngoại giao lịch lãm và duyên dáng, và được giới truyền thông đặt cho biệt hiệu "Madame Bình". 
  • Ngày 27/01/1973, Hiệp định Paris được ký kết. Bà là người đại diện của Cộng hòa miền Nam Việt Nam, một trong bốn bên ký vào bản Hiệp định.
  • Sau khi đất nước thống nhất, bà làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1976-1987), rồi Phó trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng (1987-1992). Bà còn là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá V (03/1982-1986), Đại biểu Quốc hội từ khoá VI đến khoá X (1976-2002).  
  • Năm 1992, tại kỳ họp Quốc hội khóa IX, bà được bầu làm Phó chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và giữ chức vụ này liên tục trong 10 năm (1992-2002). Bà là người phụ nữ Việt Nam thứ hai giữ chức vụ phó nguyên thủ 4 và là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên giữ chức vụ Phó chủ tịch nước. 

  • Sau khi nghỉ hưu vào năm 2002, bà tiếp tục làm Chủ tịch của Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam. Năm 2003, bà thành lập Quỹ Hòa bình và phát triển Việt Nam và làm Chủ tịch của tổ chức này cho đến nay. Ngoài ra, bà cũng là Chủ tịch danh dự của Hội nạn nhân chất độc da cam/đioxin Việt Nam kể từ khi hội này được thành lập vào tháng 1/2004. Năm 2001, Chủ tịch nước Trần Đức Lương trao tặng cho bà Huân chương Hồ Chí Minh để ghi nhận những công lao to lớn của bà đối với Đảng và Nhà nước.
  • KL: Sự đóng góp của vị “sứ giả hòa bình” Nguyễn Thị Bình vẫn là biểu tượng sáng ngời về phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.