Nếu tin vào chủ nghĩa hư vô thì bạn có thật sự tin vào bất kỳ điều gì?

  1. Triết học

Thuyết hư vô là một mối đe dọa tức thì. Theo triết gia thế kỷ 20 Hannah Arendt, chủ nghĩa hư vô được hiểu không phải một ‘hệ tư tưởng nguy hiểm’ mà như một cách suy nghĩ nguy hiểm. Nếu soi chiếu về một ý tưởng cụ thể nào đó đủ lâu, bất kể ban đầu nó có mạnh mẽ đến mức nào, được chấp nhận rộng rãi ra sao thì chúng ta đều bắt đầu nghi ngờ về sự thật trong đó. Ta bắt đầu nghi ngờ rằng những người chấp nhận ý tưởng này có thật sự biết (hay quan tâm) liệu ý tưởng đó phải là thật hay không không? Đây là bước tiến để luận rằng tại sao nhiều vấn đề có quá ít sự đồng thuận và tại sao mọi người đều dường như có vẻ rất chắc chắn trong khi bạn bắt đầu không thấy như vậy. Ở thời điểm này, trên bờ vực của chủ nghĩa hư vô, bạn có thể chọn lựa, hoặc tiếp tục suy nghĩ và tách rời bản thân khỏi xã hội; hoặc ngừng suy nghĩ và tách rời bản thân khỏi thực tế.

1200px-Nighthawks_by_Edward_Hopper_1942

Tranh Edward Hopper

Tiền bối của Arendt, một thiên niên kỷ trước, Friedrich Nietzsche đã mô tả trong tiểu luận của mình (được xuất bản bởi chị gái ông trong cuốn The Will to Power) về sự chọn lựa giữa hư vô ‘chủ động’ và hư vô ‘bị động’. Một trong những tuyên bố của ông về thuyết hư vô là kết quả của những giá trị cao nhất tàn phá chính bản thân nó. Những giá trị như sự thật, công lý có thể được xem như không đơn thuần là tư tưởng mà mang sức mạnh siêu nhiên, cụ thể khi nói “Sự thật sẽ giải thoát bạn” hay “Công lý sẽ được đền đáp”. Khi những giá trị này hóa ra không mang lại bất kỳ sức mạnh nào, khi sự thật hóa ra không mang lại sự giải phóng hay công lý không được đền đáp thì ta sẽ bị vỡ mộng. Tuy nhiên, thay vì đổ lỗi cho chính bản thân mình vì trở nên quá cả tin thì chúng lại cho rằng những giá trị này không xứng đáng với mong đợi của ta.


Theo Nietzsche, chúng ta sau đó trở thành những người hư vô chủ động và chối từ những giá trị mà người khác đưa lại cho ta mà kiến tạo lý tưởng của chính mình. Hoặc ta có thể trở thành người hư vô bị động và tiếp tục tin vào những giá trị truyền thống, mặc cho có nghi ngờ về giá trị thật của những giá trị đó. Người hư vô chủ động phá hủy để tìm kiếm hoặc tái tạo ra một thứ gì đáng tin tưởng hơn. Chỉ những gì tồn tại sau hủy hoại có thể làm ta mạnh mẽ hơn. Nietzsche và những nhà triết học Nga của thế kỷ 19 tự định hình họ là người theo chủ nghĩa hư vô đã cùng chia sẻ quan điểm này.


Tuy nhiên, người hư vô bị động lại không muốn mạo hiểm sự tự hủy và quá bám víu vào sự an toàn của những niềm tin xưa cũ. Nietzsche biện luận rằng sự tự bảo vệ trên thực tế còn nguy hiểm hơn sự tự hủy hoại. Việc tin tưởng chỉ vì niềm tin vào một thứ gì đó có thể dẫn đến sự tồn tại hời hợt, sự tự mãn chấp nhận tin vào bất cứ gì người khác tin tưởng. Chính việc tin vào một thứ gì đó đó (kể cả khi nó hoàn toàn không đáng tin) sẽ được người theo thuyết hư vô bị động nhìn nhận như một xu hướng còn hơn là mạo hiểm không tin vào bất kỳ thứ gì, mà quyết tâm đi vào hố thẳm - một ẩn dụ cho chủ nghĩa hư vô xuất hiện thường xuyên trong nghiên cứu của Nietzsche.


Ngày nay, chủ nghĩa hư vô đã nhanh chóng trở thành một mô tả phổ biến cho nhiều thái độ trước hiện trạng thế giới. Tuy nhiên, khi cụm từ này được dùng trong những cuộc nói chuyện, các văn bản hay trên mạng xã hội lại hiếm được định nghĩa, như thể tất cả mọi người đều hiểu về học thuyết này và cùng chia sẻ một khái niệm chung. Nhưng như đã nói ở trên, chủ nghĩa hư vô có thể có tính chủ động và bị động. Nếu muốn hiểu rõ hơn về thuyết hư vô đương đại, ta nên định nghĩa nó theo mặt tri thức luận, đạo đức học và siêu hình học cũng như cách chủ nghĩa hư vô được diễn đạt theo cách khác nhau trong cuộc sống như sự tự chối bỏ, chối bỏ cái chết và chối bỏ thế giới.


Theo tri thức luận, chủ nghĩa hư vô được xem như sự phủ định tri thức là có thật, lập trường cho những tin tưởng của ta là không có cơ sở. Tuyên bố cho tính hư vô tri thức này dựa trên ý tưởng rằng tri thức đòi hỏi nhiều hơn là người biết và cái biết. Mà là một cái gì đó được xem như cái khiến khi thức khách quan, như một năng lực hướng đến cái gì đó vượt ngoài cá nhân, kinh nghiệm chủ quan là cái tách biệt tri thức ra khỏi phạm vi ý kiến.


Ngoại trừ tính hư vô tri thức, không có bất kỳ tiêu chuẩn, nền tảng hay lĩnh vực nào mà con người có thể khiến tri thức xác thực, không gì có thể chứng tỏ lòng tin của ta rằng bất kỳ tuyên bố cụ thể nào cũng đúng. Tất cả cái gì mang tính khách quan theo góc nhìn của hư vô tri thức luận đều được xem là hão huyền. Chúng ta tạo nên ấn tượng về tri thức chỉ để che giấu sự thật rằng chẳng có sự thật nào cả. Ví dụ, như Thomas Kuhn tuyên bố trong cuốn The Structure of Scientific Revolution (1962), ta có thể phát triển những mô hình rất phức tạp và thành công cho việc mô tả thực tại mà trong đó ta có thể dùng để tìm kiếm sự đa dạng của những ‘sự thật’ mới, nhưng chúng ta không bao giờ có thể chứng tỏ phản hồi của mô hình đó với bản thân thực tại - chúng chỉ có thể nhận được từ mô hình cụ thể của ta về thực tại.


Nếu như cái gì đó được khẳng định là sự thật dựa trên trải nghiệm quá khứ, khi đó lại có vấn đề về tính quy nạp: chỉ vì cái gì đã từng xảy ra không có nghĩa có phải xảy ra một lần nữa.Nếu cái gì đó được khẳng định là thật dựa trên chứng cứ khoa học, thì sẽ lại dậy lên vấn đề liên quan đến tính nguyên bản. Theo logic, những phản biện này được xem như là ngụy biện, là khẳng định của người khác, ngay cả khi họ là chuyên gia, cũng đều không được xem như cơ sở của sự thật. Nói cách khác, ngay cả nhà khoa học cũng có thể có thiên kiến và mắc sai lầm. Hơn nữa, vì những nhà khoa học đưa ra tuyên bố dựa trên các nghiên cứu khoa học trước, do đó họ cũng xem như kháng lại tính nguyên bản. Điều này lại dẫn đến một vấn đề khác, sự quy hồi vô hạn. Bất kỳ kết luận tri thức nào dựa trên một cơ sở nào đó sẽ không tránh khỏi thắc mắc về nền cơ sở của cơ sở đó, và cơ sở cho cơ sở đó là gì, cứ tiếp tục như vậy.


Ở điểm này, có vẻ như cái tôi gọi là tính ‘tri thức hư vô’ thật ra không khác gì với Chủ nghĩa hoài nghi. Với những hoài nghi tương tự về cơ sở của tri thức được hỏi không ngừng đến mức nghi ngờ tính khả thi của tri thức hơn là tìm kiếm bất kỳ nền tảng vững chắc nào. Ở đây khi quay lại với hai dạng hư vô chủ động và bị động của Nietzsche. Trong khi người hư vô chủ động quen thuộc hơn với sự hoài nghi thì người hư vô bị động lại không. Người hư vô bị động biết rằng các câu hỏi hoài nghi đều dẫn đến tri thức, nhưng thay vì nghi ngờ tri thức, họ sẽ tiếp tục tin tưởng vào tri thức đó. Kết quả là với những người hư vô bị động, tri thức có tồn tại, nhưng tồn tại trên cơ sở của sự tin tưởng.


Chủ nghĩa hư vô vì thế không những được thấy ở người từ chối những khẳng định tri thức vì thiếu nền tảng vững chắc mà còn ở người có nhận thức về sự nghi ngờ xung quanh tri thức và người tiếp tục hành động như thể sự nghi ngờ không quan trọng. Những người này được gọi là người theo thuyết hư vô.


Những lý thuyết khoa học có thể dựa trên giả thiết khác, và lý thuyết khác đó cũng lại dựa trên lý thuyết khác nữa mà bất kỳ lý thuyết nào ở đây cũng có thể sai. Nhưng miễn là các lý thuyết này tiếp tục tạo ra kết quả tốt – đặc biệt mang lại hiệu quả trong lĩnh vực công nghệ kỹ thuật - thì những nghi ngờ về sự thật tối thượng trong các lý thuyết này thực sự không quan trọng. Và trong việc tầm thường hóa nghi ngờ về tri thức, những người hư vô bị động đang tầm thường hóa cả sự theo đuổi kiến thức.


Nói cách khác, với người hư vô bị động, tri thức không quan trọng, mà nghĩ rằng sự xuất hiện thường xuyên của các cụm từ như ‘kiến thức’ hay ‘chắc chắn’ là hoàn toàn ngớ ngẩn. Giả sử có người nói rằng họ biết tàu đang đến, và ta không hỏi làm sao họ biết hay nếu có hỏi, chúng ta sẽ gặp phải sự xác tín như sau: bởi vì điện thoại họ nói thế. Chiếc điện thoại hóa ra lại đúng khi mà tính đúng đắn của điện thoại được xác thực. Hay điện thoại có thể sai, thì khi đó ta có xu hướng đổ lỗi cho điện thoại làm sai lệch thông tin chứ không phải tàu hỏa. Bởi vì điện thoại trở thành thứ bảo đảm cho tri thức, việc thừa nhận điện thoại có thể sai nghĩa là ta đang mạo hiểm thừa nhận rằng không những những tuyên bố dựa vào điện thoại là vô căn cứ mà tất cả những tuyên bố tri thức của ta cũng thế. Sau cùng, giống như điện thoại, ta có xu hướng không băn khoăn rằng tại sao ta nghĩ rằng ta hiểu thứ mà ta nghĩ ta hiểu. Theo hướng này, chủ nghĩa hư vô bị động không nắm vị trí căn nguyên trong xã hội hậu hiện đại mà trở thành một phần của cuộc sống bình thường.

roofs-of-washington-square

Tranh Edward Hopper.

Về mặt đạo đức học, chủ nghĩa hư vô được xem như là phản đề cho sự tồn tại của luân lý. Theo như triết gia Donald A Crosby biện luận trong The Specter of the Absurd (1998), đạo đức hư vô có thể xem như hệ quả của hư vô tri thức luận. Nếu không tồn tại bất kỳ căn cứ cho một tuyên bố khách quan về tri thức và sự thật thì cũng không tồn tại căn cứ cho tuyên bố khách quan nào về tính đúng sai. Hay nói cách khác, cái chúng ta đang nghĩ là luân lý đạo đức thực chất là vấn đề của việc tin tưởng rằng cái gì là đúng, và niềm tin này liên quan đến tiến trình lịch sử, văn hóa hay mỗi cá nhân hơn là vấn đề bản chất của cái đúng.


Để tuyên bố được cái gì là đúng, theo lịch sử cho thấy, đã được dựa trên ba căn cứ nền tảng sau: Chúa trời, sự hạnh phúc hay lý tính. Ba căn cứ này được ứng dụng phổ quát trên tất cả mọi người, mọi lúc, mọi nơi; do đó luân lý cũng cần được ứng dụng phổ quát.


Triết gia Immanuel Kant của thế kỷ 18 khi bàn về đạo đức luận, ông nhận thấy sự nguy hiểm của căn cứ luân lý dựa trên Chúa trời hay trên sự hạnh phúc sẽ dẫn đến chủ nghĩa hoài nghi luân lý. Niềm tin vào Chúa trời động viên con người hành động một cách có đạo đức chỉ để khi chết đi con người có thể lên thiên đàng thay vì xuống địa ngục. Mặt khác, sự theo đuổi hạnh phúc có thể khuyến khích con người sống có đạo đức nhưng lại không thể khẳng định hành động nào sẽ mang lại kết quả hạnh phúc cho con người.


Đáp lại, Kant tranh biện về hành vi đạo đức theo mặt lý tính. Theo ông, nếu những gì luân lý cần là một cơ sở phổ quát thì chúng ta chỉ đơn giản ra quyết định dựa trên logic về tính phổ quát.


Bằng cách quyết định hành động cho ý định ta muốn đạt được, và chuyển ý định đó thành một luật lệ mà bất kỳ cá thể duy lý nào cũng phải tuân theo, chúng ta có thể dùng lý tính để quyết định liệu một hành động chủ ý có được cho là phổ quá về mặt logic hay không. So với Chúa trời hay sự khao khát thì tính logic dễ cho chúng ta biết hành động chủ ý này là đúng (mang tính phổ quát) hay sai (không mang tính phổ quát).


Tuy nhiên, có vài vấn đề xảy ra khi ta cố gắng biện giải luân lý đạo đức dựa trên lý tính. Vấn đề được chỉ ra bởi Jacques Lacan trong cuốn Kan with Sade (1989) rằng việc dùng tính phổ quát như một tiêu chuẩn để nhận định tính đúng sai có thể khiến những người thông minh (như Marqiuis de Sade) biện minh cho những hành vi kinh khủng nếu họ biết cách chỉ ra rằng hành động của mình hoàn toàn vượt qua được bài kiểm tra về logic của Kant. Vấn đề khác được chỉ ra bởi John Stuart Mill trong Utilitarianism (1861) là con người không thể quá duy lý và duy lý không phải là tất cả, nếu như tuân theo lý thuyết đạo đức của Kant sẽ khiến ta sống như một con robot hơn là một con người.


Một vấn đề khác, được chỉ ra bởi Nietzsche rằng lý tính không phải là những gì Kant tuyên bố, và sự lý tính này cũng chẳng có cơ sở nào rõ ràng hơn khi so với cơ sở Chúa trời hay khái niệm hạnh phúc. Trong cuốn On the Genealogy of Morals (1887), Nietzsche cho rằng lý tính không phải là cái tuyệt đối và mang tính phổ quát mà được phát triển theo thời gian và biến thành một phần trong cuộc sống con người. Nó giống như việc chuột thí nghiệm được dạy cách hành xử hợp lý và chúng ta được như ngày hôm nay một phần nhờ vào những thử nghiệm mang tính đạo đức, tôn giáo và chính trị được truyền dạy hàng thiên niên kỷ qua. Lý tính không nên được cho là cơ sở nền tảng vững chắc cho luân lý đạo đức bởi vì cơ sở của lý tính vẫn còn đang được chất vấn.


Ở đây, ta lại một lần nữa nhận ra sự khác biệt quan trọng giữa cách người hư vô chủ động và hư vô bị động phản ứng với chủ nghĩa hoài nghi đạo đức. Khả năng nghi ngờ tính hợp pháp trong bất cứ cơ sở nào thuộc phạm vi đạo đức học có thể khiến người hư vô chủ động định nghĩa lại tính đạo đức hoặc từ chối nó. Trong trường hợp đầu tiên, hành động có thể được đánh giá dựa trên chuẩn mực đạo đức nhưng người hư vô chủ động lại là người quyết định đâu là chuẩn mực. Những gì được xem như sáng tạo trên thực tế có thể chuyển hóa, nhưng thật ra lại khó có thể phân biệt rằng ta đang suy nghĩ cho bản thân mình hay suy nghĩ dựa trên những gì đã được dạy bảo.


Vượt ra khỏi chủ nghĩa vị kỷ đạo đức, có vẻ như người hư vô chủ động chỉ đơn giản từ chối tất cả khái niệm đạo đức. Thay vào đó, hành động chỉ được đánh giá trong điều kiện thực hành, như cái gì hiệu quả hay kém hiệu quả hơn trong việc nỗ lực đạt được kết thúc mong muốn. Hành động của con người do đó không khác gì so với thú vật hay máy móc. Nếu cho rằng có sự sai trái khi nói một con vật ăn thịt một con vật khác lúc nó đói là tội ác thì người hư vô chủ động cũng cho rằng có sự sai lầm khi nói con người trộm cắp từ người khác lúc họ đói là tội ác.


Khi không có luân lý đạo đức, những khái niệm về trộm cắp, nghèo đói hay quyền lợi đều được xem như là có một chỗ đứng hợp pháp nhất định. Những hành động được xem như tội ác lại không hẳn vô đạo đức. Ví dụ về thế giới quan của người hư vô chủ động có thể được thấy trong lý thuyết của nhà triết học Thrasymachus. Trong cuốn Plato’s Republic, Thrasymachus tuyên bố rằng ‘công lý’ gần như là một biện pháp tuyên truyền để áp bức kẻ yếu bằng cách lừa gạt họ vào một sự cưỡng chế chấp nhận được.


Người hư vô bị động mặc khác không từ chối tính luân lý đạo đức truyền thống chỉ vì tính đúng đắn của nó còn đang được truy vấn. Thay vào đó, người hư vô bị động từ chối ý tưởng rằng tính đúng đắn của luân lý đạo đức thực sự quan trọng. Người hư vô bị động tuân theo luân lý, không phải vì bản thân luân lý, mà bởi vì sự tuân lệnh. Người hư vô bị động thà sống với những chuẩn mực đạo đức, sống trong sự phụ thuộc vào cái gì được tin tưởng bởi nhiều người là đúng/sai, xấu/tốt để giúp ích cho quá trình ra quyết định; hơn là sống mà không theo bất kỳ quy chuẩn nào. Chuẩn mực đạo đức cung cấp chiếc la bàn và người hư vô bị động thà dùng la bàn hỏng để định hướng cuộc đời mình hơn là mạo hiểm sống nhưng hoàn toàn luôn cảm thấy lạc lối.


Chuẩn mực đạo đức cũng mang đến cảm giác được thuộc về một cộng đồng, chia sẻ những điều bình dị và những giá trị sống cũng quan trọng như việc chia sẻ ngôn ngữ. Trong việc từ chối luân lý đạo đức, người hư vô chủ động vì thế mà từ chối cộng đồng. Nhưng người hư vô bị động lại không tự ý mạo hiểm để cô độc trong thế giới. Vì vậy, bằng việc từ chối tính hợp pháp của đạo đức, người hư vô bị động đề cao tính cộng đồng. Cái quan trọng với người hư vô bị động không phải bởi vì tuyên bố đạo đức đó đúng mà bởi vì tuyên bố đó phổ biến.


Điều này nghĩa là với người hư vô bị động, tính đạo đức không quan trọng. Người hư vô bị động coi trọng luân lý đạo đức như một điểm dừng chứ không phải bởi vì luân lý đạo đức đó. Bởi vì khát khao được thuộc về sẽ dẫn dắt khát khao có được sự đảm bảo về đạo đức, người hư vô bị động chỉ quan tâm đến cảm giác của sự chỉ dẫn và cảm giác cộng đồng mà chỉ có được khi chấp nhận bộ máy đạo đức. Người hư vô bị động giống như một người quan sát một trận đấu và ủng hộ đội nhà chỉ vì tất cả mọi người đều làm như vậy. Người hư vô bị động ủng hộ chuẩn mực đạo đức chỉ vì họ được chấp nhận bởi cộng đồng mà người này muốn được thuộc về.

Rooms by the sea

Tranh Edward Hopper

Hư vô tri thức luận dẫn đến hư vô đạo đức luận, hư vô đạo đức luận lại dẫn đến hư vô chính trị. Hư vô chính trị được hiểu như sự chối bỏ tính chính thống. Điều này từng là trường hợp của triết gia người Nga ở thế kỷ 19 được nhắc tới ở trên đã thành công trong việc ám sát Sa hoàng. Tuy nhiên, hình thức cách mạng hư vô chủ nghĩa này, được nhận định như một dạng hư vô chủ động, hư vô bị động không được nhắc đến trong bối cảnh hư vô chính trị.


Điều nguy hiểm của chủ nghĩa hư vô chủ động đến từ tinh thần vô chính phủ, sẵn sàng hủy hoại xã hội để đấu tranh cho sự tự do. Điều nguy hiểm của chủ nghĩa hư vô bị động lại đến từ sự sẵn sàng tuân thủ việc hủy hoại sự tự do vì xã hội. Như chúng ta đã thấy, người hư vô bị động xem tri thức và đạo đức quan trọng như những gì họ phải tuân theo để dẫn đến sự thoải mái và an toàn. Họ cần phải thấy được bảo vệ khỏi những mối nghi ngờ khó chịu và trạng thái mất cân bằng, điều này dẫn đến việc người hư vô bị động có xu hướng hủy hoại cao hơn người hư vô chủ động.


Điều nguy hiểm ở đây chính là một hệ thống chính trị và đạo đức đề cao sự tự do và độc lập lại bị xem như kém hấp dẫn hơn với người hư vô bị động hơn là một hệ thống đạo đức và chính trị đề cao sự chấp thuận truyền thống giáo điều và tuân thủ mù quáng. Mặc dù có thể nói chúng ta muốn tự do và độc lập, nhưng giải phóng giống như một gánh nặng tệ hại. Điều này được diễn giải bởi Søren Kierkegaard trong The Concept of Anxiety (1844) khi ông mô tả nỗi sợ như một ‘cơn chóng mặt của sự lười biếng’ được dấy lên khi ta nhìn vào những gì xảy ra với ta như một hố thẳm của các khả năng vô hạn. Chỉ cần nghĩ về việc được đưa cho một menu thật nhiều lựa chọn trong nhà hàng đã khiến ta phải xin gợi ý từ phục vụ. Hay việc Netflix suốt ngày quảng cáo thư viện phim ảnh đồ sộ của mình cho bạn bằng những thuật toán đảm bảo bạn có thể hài lòng.


Nietzsche đã lo ngại về việc xem sự chấp nhận rộng rãi của tính vị tha, tự hy sinh và tính tự chối bỏ là những lý tưởng đạo đức. Ông xem sự chấp nhận của lý tưởng tự phủ định như một bằng chứng rằng chủ nghĩa hư vô bị động đã lan rộng như một căn bệnh từ giữa thế kỷ 19 ở Châu Âu. Vào thế kỷ 20, Erich Fromm trong Escape from Freedom (1941) cũng có những lo ngại tương tự mà ông định nghĩa nó như ‘nỗi sợ của sự tự do’ đã lan rộng ra khắp Châu Âu. Sự lo ngại này đã khuyến khích các nghiên cứu cho những nhà lý luận phê bình của Đức và những triết gia hiện sinh ở Pháp.


Arendt đã cảnh báo rằng ta nên cẩn thận chớ nghĩ rằng chủ nghĩa hư vô là một cuộc khủng hoảng của những cá nhân không chắc chắn. Hơn thế, ta phải nhận định chủ nghĩa hư vô là một cuộc khủng hoảng chính trị. Chủ nghĩa hư vô có thể được đề cao bởi những người có quyền lực, những người hưởng lợi từ cơn khủng hoảng này. Như thế, thậm chí hư vô nhận thức luận cũng mang sức nặng chính trị. Chấp nhận rằng vũ trụ này là vô nghĩa có thể dẫn đến lo ngại về sự áp bức, chính tranh, môi trường và cả chính sự vô nghĩa. Với lí do này, không chỉ mỗi chính trị gia mới hưởng lợi từ chủ nghĩa hư vô.


Theo như Simone de Beauvoir trong The Ethics of Ambuguity (1948), một trong những hình thức mà chủ nghĩa hư vô có thể lợi dụng chính là sự hoài niệm – khao khát quay trở về khi ta còn được tự do như những đứa trẻ trước khi lớn lên và nhận ra rằng tự do đòi hỏi trách nhiệm. Các tập đoàn vì thế mà hưởng lợi bằng cách quảng bá chủ nghĩa hư vô như một dạng thức rao bán sự hoài niệm mà có thể đánh lạc hướng ta khỏi hiện thực. Đây là lí do tại sao ta không được nhận định được sự hư vô trong bản thân mình hay trong thế giới quanh ta cũng như nguồn cơn trong của hư vô chủ nghĩa. Thay vì để bản thân mình cảm thấy mất sức mạnh trong một thế giới có vẻ như đang dừng quan tâm, ta nên hỏi rằng góc nhìn hư vô này có từ đâu và ai được lợi từ góc nhìn của ta theo chiều hướng này.

------------

Dịch từ:

If you believe in nihilism, do you believe in anything? | Aeon Essays

aeon.co

Từ khóa: 

triết học đường phố

,

chủ nghĩa hiện sinh

,

chủ nghĩa hư vô

,

phong cách sống

,

triết học

trên thực tế, thuyết hư vô cho rằng mọi sự đều vô nghĩa (everything is meaningless) nghe có vẻ giống với quan điểm phật giáo rằng tất cả mọi thứ đều vô thường (thật ra nietz cũng từng cho rằng thuyết vô thường có thể nằm trong thuyết hư vô). hiểu cho rõ, vô thường ở đây nghĩa là nothingless, không có cái gì cả, nó khác với vô nghĩa. thế nhưng phật giáo nói về cái vô thường này ko phải 1 thuyết giáo mà có lẽ giống hơn 1 quan điểm để thực hành. vì mọi thứ đều là ko gì cả nên nó luôn biến thiên trong từng phút từng giây, ta nhìn một dòng sông đó nhg thực chất nó luôn chảy và luôn động. do đó hiểu về vô thường là để ta học cách quán sát, đứng từ trên cao nhìn xuống, vừa ở trong và vừa ở ngoài sự việc để thực hành trong cách sống của mình.

Trả lời

trên thực tế, thuyết hư vô cho rằng mọi sự đều vô nghĩa (everything is meaningless) nghe có vẻ giống với quan điểm phật giáo rằng tất cả mọi thứ đều vô thường (thật ra nietz cũng từng cho rằng thuyết vô thường có thể nằm trong thuyết hư vô). hiểu cho rõ, vô thường ở đây nghĩa là nothingless, không có cái gì cả, nó khác với vô nghĩa. thế nhưng phật giáo nói về cái vô thường này ko phải 1 thuyết giáo mà có lẽ giống hơn 1 quan điểm để thực hành. vì mọi thứ đều là ko gì cả nên nó luôn biến thiên trong từng phút từng giây, ta nhìn một dòng sông đó nhg thực chất nó luôn chảy và luôn động. do đó hiểu về vô thường là để ta học cách quán sát, đứng từ trên cao nhìn xuống, vừa ở trong và vừa ở ngoài sự việc để thực hành trong cách sống của mình.

Đồng ý với bạn