Hai xu hướng phát triển của dân tộc và những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc?

  1. Triết học

Từ khóa: 

triết học

Hai xu hướng phát triển của dân tộc trong chủ nghĩa tư bản

Khi nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của nó:

Xu hướng thứ nhất: Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Thực tế này đã diễn ra ở những quốc gia, khu vực nơi có nhiều cộng đồng dân cư với nguồn gốc tộc người khác nhau trong chủ nghĩa tư bản. Xu hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc để tiến tới thành lập các quốc gia dân tộc độc lập và có tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Trong xu hướng đó, nhiều cộng đồng dân cư đã ý thức được rằng chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập, họ mới có quyền quyết định con đường phát triển của dân tộc mình.

=> Đi đến sự tự chủ, phồn vinh cho dân tộc mình

Ví dụ: Cuộc vận động hợp nhất giữa Singapore với Liên hiệp bang Malaya để hình thành Malaysia không bền vững khiến Singapore tách khỏi Malaysia trở thành một nước cộng hòa độc lập. Đến nay Singapore đã trở thành một trong những quốc gia thịnh vượng nhất trên thế giới, là con rồng của Châu Á.

https://cdn.noron.vn/2022/04/19/14391113014882993-1650351475.jpg

Xu hướng thứ hai: Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế, văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng giữa các dân tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.

=> Giúp các dân tộc trong cộng đồng xích lại gần nhau hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Ví dụ: Liên Hiệp Quốc được hình thành nhằm

  • Duy trì hoà bình an ninh trên thế giới

  • Phát triển các mối quan hệ hữu nghị

  • Tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc

https://cdn.noron.vn/2022/04/19/thu-tuong-nguyen-xuan-phuc-hoi-dam-voi-tong-thu-ky-lien-hop-quoc-41088-00-32-56-624-1650351497.png

Tuỳ từng điều kiện lịch sử khác nhau mà có thể diễn ra sự trội hơn của xu hướng nào. Nói chung, trong điều kiện phát triển của chủ nghĩa tư bản, sự vận động của hai xu hướng nói trên gặp rất nhiều trở ngại.

Trả lời

Hai xu hướng phát triển của dân tộc trong chủ nghĩa tư bản

Khi nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của nó:

Xu hướng thứ nhất: Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Thực tế này đã diễn ra ở những quốc gia, khu vực nơi có nhiều cộng đồng dân cư với nguồn gốc tộc người khác nhau trong chủ nghĩa tư bản. Xu hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc để tiến tới thành lập các quốc gia dân tộc độc lập và có tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Trong xu hướng đó, nhiều cộng đồng dân cư đã ý thức được rằng chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập, họ mới có quyền quyết định con đường phát triển của dân tộc mình.

=> Đi đến sự tự chủ, phồn vinh cho dân tộc mình

Ví dụ: Cuộc vận động hợp nhất giữa Singapore với Liên hiệp bang Malaya để hình thành Malaysia không bền vững khiến Singapore tách khỏi Malaysia trở thành một nước cộng hòa độc lập. Đến nay Singapore đã trở thành một trong những quốc gia thịnh vượng nhất trên thế giới, là con rồng của Châu Á.

https://cdn.noron.vn/2022/04/19/14391113014882993-1650351475.jpg

Xu hướng thứ hai: Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế, văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng giữa các dân tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.

=> Giúp các dân tộc trong cộng đồng xích lại gần nhau hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Ví dụ: Liên Hiệp Quốc được hình thành nhằm

  • Duy trì hoà bình an ninh trên thế giới

  • Phát triển các mối quan hệ hữu nghị

  • Tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc

https://cdn.noron.vn/2022/04/19/thu-tuong-nguyen-xuan-phuc-hoi-dam-voi-tong-thu-ky-lien-hop-quoc-41088-00-32-56-624-1650351497.png

Tuỳ từng điều kiện lịch sử khác nhau mà có thể diễn ra sự trội hơn của xu hướng nào. Nói chung, trong điều kiện phát triển của chủ nghĩa tư bản, sự vận động của hai xu hướng nói trên gặp rất nhiều trở ngại.

1. Hai xu hướng phát triển của dân tộc:

- Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản V.I. Lênin đã phát hiện 2 xu hướng khách quan:

  • Xu hướng thức tỉnh ý thức dân tộc hình thành các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này thể hiện nổi bật trong giai đoạn đầu của CNTB đưa đến sự ra đời của các dân tộc. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, xu hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức.
  • Xu hướng xích lại gần nhau giữa các dân tộc (Liên hiệp giữa các dân tộc). Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hoá trong xã hội tư bản làm xuất hiện nhu cầu xoá bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia, quốc tế giữa các dân tộc làm cho các dân tộc xích lại gần nhau.

- Xét trong phạm vi các quốc gia XHCN có nhiều dân tộc:

  • Xu hướng thứ nhất biểu hiện sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và phồn vinh của bản thân dân tộc mình
  • Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống. ở các quốc gia XHCN, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các dân tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh.

2. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc

a. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng

  • Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong quan hệ xã hội cũng như quan hệ quốc tế. Không có đặc quyền, đặc lợi của dân tộc này đối với dân tộc khác.
  • Trong một quốc gia nhiều dân tộc sự bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội...giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thể hiện sinh động trong thực tế.
  • Trên phạm vi quốc tế, bình đẳng dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sô vanh, gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc và là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc
  • trong sự nghiệp giải phóng. Nó là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc.

b. Các dân tộc được quyền tự quyết

  • Thực chất là quyền làm chủ của một dân tộc, tự mình quyết định vận mệnh của dân tộc mình; là giải phóng các dân tộc bị áp bức (thuộc địa và phụ thuộc) khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và đưa đất nước tiến lên theo con đường tiến bộ xã hội.
  • Quyền dân tộc tự quyết trước hết là tự quyết về chính trị: Quyền thành lập một quốc gia dân tộc độc lập (quyền phân lập). Quyền các dân tộc tự nguyện liên hợp lại thành một liên bang trên cơ sở bình đẳng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ (quyền liên hiệp).
  • Xem xét và giải quyết quyền dân tộc tự quyết phải đứng vững trên lập trường quan điểm của giai cấp công nhân. Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức. Kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và bọn phản động quốc tế lợi dụng chiêu bài "dân tộc tự quyết" để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước cũng như giúp đỡ các thế lực phản động, thế lực dân tộc chủ nghĩa đàn áp các lực lượng tiến bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, của CNTB.
  • Quyền dân tộc tự quyết là một quyền cơ bản của dân tộc. Nó là cơ sở để xoá bỏ sự hiềm khích, thù hằn giữa các dân tộc; đảm bảo sự tồn tại, phát triển độc lập cho các dân tộc; phát huy tiềm năng của các dân tộc vào sự phát triển chung của nhân loại.

c. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:

  • Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là nội dung cơ bản nhất trong cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, đảm bảo cho phong trào giải phóng dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
  • Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quýêt, quyền bình đẳng dân tộc. Đồng thời nó là yếu tố đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình.
  • Đoàn kết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy nội dung liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Cương lĩnh dân tộc của ĐCS là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN.