Dân cư, xã hội Trung Quốc?
kiến thức chung
DÂN CƯ.
Theo kết quả điều tra nhân khẩu toàn quốc năm 2014, dân số nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 1.364.038.000 người. Khoảng 16,60% dân số từ 14 tuổi trở xuống, 70,14% từ 15 đến 59 tuổi, và 13,26% từ 60 tuổi trở lên. Do dân số đông và tài nguyên thiên nhiên suy giảm, chính phủ Trung Quốc rất quan tâm đến tốc độ tăng trưởng dân số, và từ năm 1978 họ đã nỗ lực tiến hành chính sách kế hoạch hóa gia đình nghiêm ngặt được gọi là “chính sách một con.” Trước năm 2013, chính sách này hạn chế mỗi gia đình có một con, ngoại trừ các dân tộc thiểu số và linh hoạt nhất định tại các khu vực nông thôn.
Một nới lỏng lớn về chính sách được ban hành vào tháng 12 năm 2013, cho phép các gia đình có hai con nếu một trong song thân là con một. Năm 2010 tỉ lệ sinh ở Trung Quốc là khoảng 1,4. Chính sách một con cùng với truyền thống trọng nam có thể góp phần vào mất cân bằng về tỷ suất giới tính khi sinh. Theo điều tra nhân khẩu năm 2010, tỷ suất giới tính khi sinh là 118,06 nam/100 nữ, cao hơn mức thông thường là khoảng 105 nam/100 nữ. Kết quả điều tra nhân khẩu vào năm 2013 cho thấy nam giới chiếm 51,27% tổng dân số.
2/ DÂN TỘC
Trung Quốc là một lãnh thổ đa quốc gia, với dân số bao gồm nhiều dân tộc và nhiều ngôn ngữ. Trung Quốc chính thức công nhận 56 dân tộc riêng biệt, dân tộc đông dân nhất là người Hán, chiếm khoảng 91,51% tổng dân số. Người Hán, do đó, tạo thành khối đồng nhất lớn của nhân dân Trung Quốc, chia sẻ cùng một văn hoá, cùng truyền thống, và cùng ngôn ngữ viết. Vì lý do này, các cơ sở chung để phân loại dân số của đất nước phần lớn là ngôn ngữ chứ không phải sắc tộc. Khoảng 55 nhóm dân tộc thiểu số đã lan ra trên khoảng ba phần năm tổng diện tích của đất nước. Nơi mà các nhóm thiểu số tập trung với số lượng lớn, họ đã có được một số vẻ tự chủ và tự quản; khu tự trị của một số loại đã được thành lập trên cơ sở của sự phân bố địa lý của các dân tộc.
Chính quyền đã đạt được sự tín nhiệm trong việc đối xử với các dân tộc thiểu số; đã nâng cao kinh tế phồn vinh của họ, nâng cao mức sống, cung cấp cơ sở giáo dục, quảng bá ngôn ngữ và văn hóa, và nâng cao trình độ văn hoá của họ, cũng như giới thiệu ngôn ngữ viết ở những nơi không tồn tại trước đó. Tuy nhiên, người ta ghi nhận rằng, một số dân tộc thiểu số (ví dụ, người Tây Tạng) đã bị đàn áp với mức độ khác nhau.
Cũng vậy trong số 50 ngôn ngữ của dân tộc thiểu số, chỉ có 20 dân tộc có chữ viết trước khi có sự xuất hiện của chế độ Cộng sản vào năm 1949; và chỉ có tương đối ít các ngôn ngữ viết – ví dụ như Mông Cổ, Tây Tạng, Uighur, Kazakhstan (Hasake), Đại, và Hàn Quốc (Chaoxian) được sử dụng hàng ngày. Ngôn ngữ viết khác đã được sử dụng chủ yếu cho mục đích tôn giáo và bởi số lượng hạn chế người. Cơ sở giáo dục cho dân tộc thiểu số là một đặc điểm của nhiều thành phố lớn, đặc biệt là Bắc Kinh, Vũ Hán, Thành Đô, và Lan Châu (Lanzhou).
3/ NGÔN NGỮ
Trung Quốc có 292 ngôn ngữ đang tồn tại. Các ngôn ngữ phổ biến nhất thuộc nhánh Hán của ngữ hệ Hán-Tạng, gồm có Quan thoại (bản ngữ của 70% dân số), và các ngôn ngữ Hán khác: Ngô, Việt (hay Quảng Đông), Mân, Tương, Cám, và Khách Gia. Các ngôn ngữ thuộc nhánh Tạng-Miến như Tạng, Khương, Lô Lô được nói trên khắp cao nguyên Thanh Tạng và Vân Quý. Các ngôn ngữ thiểu số khác tại tây nam Trung Quốc gồm các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai như tiếng Choang, H’Mông-Miền và Nam Á. Tại khu vực đông bắc và tây bắc của Trung Quốc, các dân tộc thiểu số nói các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Altai như tiếng Mông Cổ và ngữ hệ Turk như tiếng Duy Ngô Nhĩ. Tiếng Triều Tiên là bản ngữ tại một số khu vực sát biên giới với Bắc Triều Tiên, và tiếng Sarikoli của người Tajik ở miền tây Tân Cương là một ngôn ngữ Ấn-Âu.
Tiếng phổ thông là một dạng của Quan thoại dựa trên phương ngôn Bắc Kinh, là quốc ngữ chính thức của Trung Quốc và được sử dụng làm một ngôn ngữ thông dụng trong nước giữa những cá nhân có bối cảnh ngôn ngữ khác biệt. Chữ Hán được sử dụng làm văn tự cho các ngôn ngữ Hán từ hàng nghìn năm, tạo điều kiện cho người nói các ngôn ngữ và phương ngôn Hán không hiểu lẫn nhau có thể giao tiếp thông qua văn tự. Năm 1956, chính phủ Trung Quốc đưa ra chữ giản thể, thay thế cho chữ phồn thể. Chữ Hán được latinh hóa bằng hệ thống bính âm. Tiếng Tạng sử dụng chữ viết dựa trên mẫu tự Ấn Độ, các dân tộc Hồi giáo tại Trung Quốc thường sử dụng mẫu tự Ba Tư-Ả Rập, còn tiếng Mông Cổ tại Trung Quốc và tiếng Mãn sử dụng chữ viết bắt nguồn từ mẫu tự Duy Ngô Nhĩ cổ.
4/ TÔN GIÁO
Trong hàng thiên niên kỷ, văn minh Trung Hoa chịu ảnh hưởng từ nhiều phong trào tôn giáo khác nhau, Tam giáo Trung Hoa bao gồm Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo trên phương diện lịch sử có tác động quan trọng trong việc định hình văn hóa Trung Hoa. Các yếu tố của Tam giáo thường được kết hợp vào các truyền thống tôn giáo quần chúng hoặc dân gian. Hiến pháp Trung Quốc đảm bảo quyền tự do tôn giáo, song các tổ chức tôn giáo không được chính thức chấp thuận có thể phải chịu bách hại ở quy mô quốc gia.
5/ ĐÔ THỊ HÓA
Trung Quốc trải qua đô thị hóa đáng kể trong các thập niên vừa qua. Tỷ lệ dân số trong các khu vực đô thị tăng từ 20% vào năm 1990 lên 46% vào năm 2007, và dân số đô thị của Trung Quốc dự tính đạt một tỷ vào năm 2030. Năm 2012, có trên 262 triệu công nhân di cư tại Trung Quốc. Trung Quốc có trên 160 thành phố có dân số đô thị trên một triệu, trong đó có bảy siêu đô thị (dân số hành chính trên 10 triệu) là Trùng Khánh, Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu, Thiên Tân, Thâm Quyến, và Vũ Hán. Đến năm 2025, ước tính Trung Quốc sẽ có 221 thành phố có trên một triệu dân cư đô thị.
Nội dung liên quan
Trang Đan