Ảnh hưởng của Nho giáo đến trật tự trong quan hệ xã hội Trung Quốc
kiến thức chung
1. Khái quát về Nho giáo Trung Quốc
1.1. Định nghĩa Nho giáo
• Chữ “nho” theo Hán tự là do chữ nhân (人) và chữ nhu(需)ghép lại mà thành. Nhân là người, nhu là cần dùng hay còn có nghĩa là chờ đợi, tức là người trí thức chờ đợi người ta cần dùng và gọi đến thì đem tài sức ra giúp đời.
Hiểu được nghĩa của chữ “nho” thì hiểu được rằng: “Nhà Nho là những hạng người học thông đạo lý của Thánh Hiền, biết được lẽ Trời Đất và Người, để hướng dẫn người phải ăn ở và cư xử thế nào cho hợp với Đạo Trời, hợp với lòng người”. Sách Pháp Ngôn có câu: “Thông Thiên định Địa viết Nho” nghĩa là: Người biết rõ cả Thiên văn, Địa lý, thì mới gọi là Nho. Phàm những nhà Nho học thì chuyên về mặt áp dụng thực tế, chứ không chú trọng nhiều về mặt lý tưởng. Bởi vậy, từ xưa đến nay, họ là những người sẵn sàng nhập thế cuộc, gánh vác việc đời, làm ích nước lợi dân, khác hẳn với những tu sĩ Phật giáo hay Lão giáo, họ chỉ thiên về việc lo tu độc thiện kỳ thân hay việc xuất thế.
• Chữ “giáo” là dạy, tôn giáo hay một mối đạo.
Như vậy, Nho giáo được hiểu là một tôn giáo hay một học thuyết có một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội thịnh trị, có phương pháp, dạy về Nhân đạo, tức là dạy về đạo làm người trong gia đình xã hội.
Hệ thống của Nho giáo theo chủ nghĩa: “ Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể”, nghĩa là: Trời Đất và muôn vật đều đồng một thể với nhau.
Phương pháp của Nho giáo là phương pháp chứng luận, lấy Thiên lý lưu hành làm căn bản.
Học thuyết của Nho giáo có 3 điều cốt yếu: Thứ nhất về tín ngưỡng: Luôn luôn tin rằng “Thiên Nhân tương dữ”, nghĩa là: Trời và người tương quan với nhau.Thứ hai về thực hành: Lấy sự thực nghiệm chứng minh làm trọng. Thứ ba về trí thức: Lấy trực giác làm cái khiếu để soi rọi tìm hiểu sự vật.
1.2. Sự hình thành và các giai đoạn phát triển Nho giáo
1.2.1. Sự hình thành
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu (từ thế kỷ 17 - 771 TCN), đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu (từ 722 - 481 TCN) xã hội loạn lạc, khoảng cuối thời nhà Châu, đời vua Linh Vương, có Khổng Tử (551-479 TCN) tên là Khâu, tê tự là Trọng Ni, là người ấp Tâu (nay là thành phố Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông) thuộc nước Lỗ. Ông là người đã chỉnh đốn và phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo.
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mâu Ni, Giê-xu,... người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần,vào khoảng hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời, khiến cho việc tìm hiểu tư tưởng gốc của Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông. Nho giáo hình thành và phát triển qua năm thời kỳ: Nho giáo thời kỳ nguyên thủy (Tiên Tần), Hán Nho, Tống Nho, Nho giáo trong thế kỷ XX và thời kỳ cuối là giai đoạn phục hưng Nho giai đến nay. Sau này tại Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế (thời kỳ thứ hai: Hán Nho), trở thành hệ tư tưởng chính thống cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2000 năm. Từ thế kỷ thứ IV, Nho giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
1.2.2. Lịch sử phát triển Nho giáo tại Trung Quốc
• Thời kỳ Tiên Tần
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Tư tưởng quan trọng của Khổng Tử thực tế chỉ là một chữ “Nhân”, ý nghĩa của chữ này bao gồm mọi đạo đức tốt đẹp. “Nhân” là gì? Khổng Tử nói: “ Nhân giả ái nhân”, có nghĩa là con người yêu thương lẫn nhau. Yêu thương bằng cách nào? Là “suy kỉ cập nhân”, vừa là “kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân”, nhường điều có lợi mà mình muốn có cho người khác; vừa là “kỉ sử bất dục, vật thi vu nhân”, thứ mà bản thân mình không muốn có và việc mình không muốn làm thì khoog nên miễn cưỡng gán cho người khác. Người có “Nhân” thì phải “ cư sử cung,chấp sự kính, dữ nhân trung”, cần phải “ngôn trung tín,hành đốc kính”. Nếu như làm được những 4 điều này thì “chí sĩ nhân dân, vô cầu sinh nhĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân”. Làm được như vậy thì mỗi người sẽ có được nhân cách lý tưởng. Khổng Tử đã thể hiện được sự đối xử bình đẳng, tôn trọng người khác và sự theo đuổi nhân cách đạo đức hoàn thiện, đây là sự thể hiện rõ ràng về “tư tưởng chủ nghĩa nhân bản”.
Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo thời kỳ Tiên Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh".
• Thời kỳ Hán Nho (111- 87 trước Công nguyên)
Dưới đời vua Hán Vũ Đế, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn và được dùng như là một công cụ thống nhất đất nước về mặt tư tưởng. Cũng từ đây mà Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến của Trung Quốc. Đến thời kỳ này, Nho giáo có rất nhiều điểm khác biệt so với Nho giáo Tiên Tần. Đó là đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, đồng thời Hán Nho đã thay thế cho tên gọi Nho giáo lúc trước.
Trong vấn đề tư tưởng triết học Nho giáo và chính trị, có hai học thuyết đáng chú ý nhất là: “ Trời trao chính quyền” và “ Trời và người có thể thông quan nhau, hiểu biết lẫn nhau” ( thiên nhân tương dữ). Đổng Trọng Thư cho rằng mọi hiên tượng tự nhiên xã hội và trật tự của nó đều xuất phát và được sắp đặt theo ý Trời, thân thể và ý thức của con người đều do thượng đế ban cho, chính vì vậy mà mọi hoạt động tốt xấu của giai cấp thống trị dưới trần thế đều sẽ được nhận lại những điều tương ứng.
• Thời Kỳ Tống Nho (960-1297)
Thời kỳ này, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ yếu của phong kiến Trung Quốc. Nhưng cũng trong thời gian này, Phật giáo và Đạo giáo đã bắt đầu có ảnh hưởng ở Trung Quốc, chính vì vậy mà các nhà Nho đã tiếp thu những tu tưởng triết học của Phật giáo và vũ trụ quan của Đạo giáo để bổ sung cho triết lý Nho giáo thêm phần sâu sắc. Đặc điểm chung của các nhà Nho thời Tống đó là giải thích vũ trụ và giải thích mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất mà Nho học gọi là lý và khí. Những nhân vật tiêu biểu của Phái lý học là Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy…
• Nho giáo trong thế kỷ XX
Với sự sụp đổ của chế độ quân chủ, Nho giáo mất vị thế độc tôn, thậm chí bị bài trừ ở ngay tại Trung Quốc trong thập niên 1960-1970 khi Mao Trạch Đông làm chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trung Quốc đứng trước sự suy thoái của đạo đức xã hội.
- Nho giáo Trung Quốc từ 1911 đến 1915
Có thể nói đây là thời kỳ chuyển giao thời đại, thời kỳ Nho giáo chịu những tác động mạnh mẽ nhất, mở ra thể chế mới và gạt bỏ tất yếu vị thế của Nho giáo. Từ cách mạng Tân Hợi đến Ngũ tứ vận động, Nho học chịu ba lần tấn công dữ dội, đó là: Quá trình xác lập hiến pháp mới, nền chính trị mới, nền giáo dục mới đã kết thúc vị trí hiển học quan phương chính thống mà Nho học đã từng có suốt mấy nghìn năm; việc phê phán phong trào khôi phục nền đế chế của Viên Thế Khải do ông lợi dụng Nho học làm chỗ dựa tư tưởng để khôi phục nền đế chế; cuối cũng là phong trào Tân văn hóa vận động, phê phán Nho giáo ở tầng học thuật chiều sâu.
- Nho giáo Trung Quốc 1921- 1927
Ở Trung Quốc thời kỳ này xuất hiện 3 kiểu thái độ đối với Nho học, tạo thành 3 xu thế tư tưởng chính. Đó là: Thái độ chủ trương phê bình Nho giáo; tư tưởng thừa kế những thành tựu của Nho học; tư tưởng dùng học thuyết Nho giáo làm cơ sở giải thích chủ nghĩ Tam dân.
- Nho giáo giai đoạn 1927- 1936
Có bốn tư trào liên quan đến Nho học. Đó là, (1) Quốc dân đảng lợi dụng Nho học với nội dung như: Tưởng Giới Thạch đề cao Nho học là gốc của việc lập quốc; “ Phong trào đời sống mới” với Nho học; Nho học trong “ Duy sinh luận” của Trần Lập Phu; (2) Tư tưởng và hoạt động phục hưng Nho học của Lương Thấu Minh và Hùng Thập Lực;(3) Phùng Hữu Lan lý giải Nho học bằng phương pháp của giai cấp tư sản phương Tây qua tác phẩm Trung Quốc triết học sử; (4) Quách Mạt Nhược, Lữ Chấn Vũ bình giá Nho học bằng quan niệm duy vật lịch sử.
- Nho giáo giai đoạn 1937 – 1949
Quốc Dân đảng lợi dụng Nho học để duy trì sự thống trị của mình, đặc biệt trong thời gian kháng chiến chống Nhật, thông qua Cương lĩnh Kháng chiến kiến quốc với quy dịnh “ chú trọng đến việc tu dưỡng đạo dức quốc dân”. Tưởng Giới Thạch lợi dụng những mặt bảo thủ của Nho học để ngăn chặn sự truyền bá tư tưởng tự do dân chủ và tư tưởng khoa học xã hội chủ nghĩa tại Trung Quốc.
Đây cũng là thời kỳ, Tiền Mục, Phùng Hữu Lan, Hạ Lân, Lương Thấu Minh đưa ra các tư tưởng, ấn phẩm nhằm phát huy Nho giáo truyền thống.
Phương châm “ phê phán và kế thừa” của Mao Trạch Đông và sự phân tích của ông về Nho gia, để xây dựng nền văn hóa mới của chủ nghĩa dân chủ mới.
- Nho giáo giai đoạn từ 1950- 1976
Đây là thời kỳ sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc giành được quyền lực, và có thể coi đây là thời kỳ mà Đảng cộng sản đã tập trung nguồn lực đất nước vào việc phá hủy nền văn hóa truyền thống thông qua việc “ cách mạng hóa”, khiến con người ta xa rời các giá trị truyền thống, lao vào cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ gia đình hoàng tộc, việc sử dụng các thủ đoạn âm mưu, và việc thực hiện chế độ độc tài chuyên quyền, và tạo ra một ấn tượng sai lầm là “ văn hóa Đảng” là một sự kế thừa của văn hóa truyền thống Trung Quốc, thậm chí còn lợi dụng nó để kích động việc từ bỏ văn hóa truyền thống Trung Quốc đích thực. Truyền thống lâu đời của văn hóa Trung Quốc – dựa trên tín ngưỡng và tôn trọng đạo đức và Nho giáo cùng với Đạo giáo và Phật giáo cũng vì vậy mà ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người dân Trung Quốc. Đảng tiến hành cùng một lúc tiêu diệt Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo bằng cách phá hủy các văn vật, phá hủy các tín ngưỡng tinh thần.
• Thời kỳ phục hưng Nho giáo đến nay
Đến đầu thế kỷ 21, đứng trước sự suy thoái của đạo đức xã hội, những giá trị của Nho giáo về tu dưỡng, giáo dục con người dần được coi trọng trở lại và được thúc đẩy thành phong trào tại các nước Đông Á. Phục hưng Nho giáo trong thế kỷ XXI là phong trào đang lên ở Đông Á, nó xuất phát từ Trung Quốc và lan truyền ra các khu vực lân cận. Nhiều hội thảo quốc tế về phục hưng nền Nho học đã được tổ chức ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tập hợp các nhà nghiên cứu Nho giáo trong khu vực và trên thế giới đã kiến lập Hiệp hội nghiên cứu Nho giáo quốc tế. Từ năm 2005, chương trình Bách gia Giảng đường của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) đã khởi xướng phong trào đọc lại Luận ngữ nhằm phục hồi đạo đức truyền thống. Tại kỳ họp Quốc hội Trung Quốc 3/2005, có đại biểu đề nghị phục hồi đạo đức nhân-nghĩa-lễ-trí-tín, đưa Tứ thư Ngũ kinh vào chương trình trung-tiểu học và thi công chức. Từ 10/2006, bà Vu Đan thuyết trình nhiều buổi trên truyền hình về “Thu hoạch đọc Luận ngữ”, “Thu hoạch đọc Trang Tử”, được dân hoan nghênh. Hai cuốn sách cùng tên của bà in lần đầu 4 triệu bản bán hết ngay. Tháng 9/2008, Bộ Văn hóa Trung Quốc và chính quyền tỉnh Sơn Đông lần đầu tổ chức Đại hội Nho học thế giới tại Khúc Phụ quê Khổng Tử.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu sử dụng những ngôn từ của đạo Nho. Tháng 2/2006 Chủ tịch Hồ Cẩm Đào phát biểu: Khổng Tử từng nói Hòa vi quý. Mấy tháng sau, ông chỉ thị Trung Quốc phải xây dựng xã hội hài hòa, là quan tâm công bằng tới lợi ích của tất cả các giai cấp trong nước. Theo các nhà Nho giải thích, chủ trương đó dựa trên quan điểm Hòa (và Nhân) là các tư tưởng cơ bản của Nho giáo. Sau đại hội 18 Đảng cộng sản Trung Quốc (12/2012), Tân tổng bí thư kiêm chủ tịch nước Tập Cận Bình rất đề cao Nho học. Ngày 24/09/2014, Tập Cận Bình đến dự và phát biểu tại Hội thảo Nho học với nền hòa bình và sự phát triển thế giới nhân kỉ niệm 2565 năm sinh Khổng Tử. Đây là lần đầu tiên, lãnh đạo cao nhất Trung Quốc dự hoạt động trên. Sự kiện chưa từng có này cho thấy chủ tịch Tập Cận Bình là lãnh đạo Trung Quốc quan tâm nhất việc phục hồi Nho giáo.
Từ đây Nho giáo đang trong quá trình đoạt lại vị thế quan trọng của nó và có ảnh hưởng sâu rộng đến kinh tế, xã hội, chính trị và ảnh hưởng đặc biệt đến trật tự quan hệ xã hội của Trung Quốc.
2. Trật tự quan hệ xã hội trong Nho giáo
Tư tưởng quan trọng của Khổng Tử thực tế chỉ là một chữ “Nhân”, ý nghĩa của chữ này bao gồm mọi đạo đức tốt đẹp, ông chú trọng đến đạo đức con người hơn tất cả. Do đứng trước tình hình xã hội tha hoán từ bậc thiên tử đến dân thường,
“vua không ra vua, quan không ra quan, cha không ra cha, con không ra con” thì Khổng Tử gọi đây là một chế độ “xã hội vô đạo”.
Xã hội mà Khổng tử gọi là xã hội vô đạo là xã hội Trung Quốc vào thời kì Tây Chu mà Xuân Thu và nguyên nhân dẫn đến sự vô đạo là do:
• Kinh tế công cụ bằng sắt đã được phổ biến rộng rãi, từ đó thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp, tiền tệ bằng kim loại hình thành, quan hệ sản xuất phong kiến xuất hiện dần dần chiếm ưu thế trong đời sống xã hội.
• Về chính trị, suốt thời Xuân Thu, mệnh lệnh của “Thiên tử” nhà Chu
không còn được tuân thủ, trật tự, lễ nghĩa, cương thường xã hội đảo lộn, đạo
đức suy đồi. Nạn chư hầu chiếm ngôi “Thiên tử”, đại phu lấn quyền chư hầu tôi giết vua, cha giết con, anh hại em, vợ lìa chồng thường xuyên xảy ra. Các
nước chư hầu đua nhau động binh gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau hết sức
khốc liệt.
• Về văn hóa, xã hội: Chữ viết xuất hiện sớm, hệ thống chữ tượng hình ra
đời có khả năng đồng hoá dân tộc. Văn hoá truyền thống: tác phẩm cổ xưa
như Kinh Thi, Kinh thư, kinh nhạc...Văn học nghệ thuật: thơ ca nổi tiếng được
lưu hành nhiều trong dân gian. Tuy nhiên do kinh tế phát triển, kết cấu các giai tầng trong xã hội cũng biến đổi một cách sâu sắc, nhiều giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện tồn tại đan xen và xảy ra mâu thuẫn gay gắt.
Sự vô đạo còn được thấy rõ qua chính các hoạt động thực tế xã hội và sự loạn lạc, tha hóa phẩm chất đạo đức, cương thường điên đảo của thời buổi lúc đó. Điều này chứng tỏ cách thức tổ chức, mô hình quản lí xã hội theo thể chế nhà Tây Chu đã lỗi thời và việc phải xây dựng lại xã hội, lựa chọn hình mẫu xã hội tương lai phù hợp để ổn định, phát triển xã hội là một đòi hỏi tất yếu và quan trọng.
Nhìn thấu yêu cầu tất yếu của xã hội, Nho giáo đã đưa ra quan điểm xã hội lí tưởng là xã hội ổn định, có trật tự kỉ cương, sống hòa mục nhân ái, có sự phân biệt đẳng cấp, nhưng đó là xã hội có đạo đức, có giáo dục, giáo hóa đặc biệt coi trọng “Nhân trị” chứ không phải “Pháp trị”. Nho giáo chủ trương giáo hóa mọi tầng lớp trong xã hội từ bậc quân vương đến kẻ thứ dân sao cho ai ai cũng thấm nhuần đạo học của thánh hiền, phát huy tính thiện sẵn có của bản thân, tự mình sửa đổi, rèn luyện cho tốt đẹp hơn.
Xã hội là một tổng thể những quan hệ xã hội giữa con người với con người nhưng Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng của xã hội. Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội Khổng Tử đã đề cao tư tưởng tam cương, ngũ thường và chính danh. Từ đó, trật tự xã hội Trung Quốc dần được cải thiện theo chiều hướng tích cực.
2.1. Tam cương
Tam cương là khái niệm đạo đức – xã hội của Nho giáo. Nho giáo coi giữa người với người có năm quan hệ (ngũ luân): Vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, anh – em, bạn bè. Về sau ba quan hệ cơ bản được nhấn mạnh là “tam cương”. Chữ cương ở đây được hiểu theo nghĩa đen là dây lớn của chiếc lưới, nghĩa bóng chỉ những thứ quan trọng bậc nhất trong một cơ cấu tổ chức. Tam cương là ba quan hệ chủ chốt trong xã hội theo quan điểm phong kiến là “quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương” tức là ba mối quan hệ: Quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con) và phu phụ (vợ chồng). Tam cương là khái niệm của Hán nho lần đầu tiên xuất hiện trong cuốn “Bạch hổ thông nghị” thể hiện tư tưởng của Đổng Trọng Thư và Hán Vũ Đế. Mục đích của nó là quy định thân phận của bề tôi, của người vợ và người con phải phụ thuộc vào vua, vào chồng, vào cha.
• Quan hệ thứ nhất là quan hệ vua – tôi. Bề tôi phải tuyệt đối trung thành với vua và vua giữ vai trò quyết định.
• Quan hệ thứ hai là quan hệ cha – con thì con phải có hiếu với cha mẹ và trong quan hệ cha con thì cha là người giữ vai trò quyết định.
• Mối quan hệ thứ ba là vợ - chồng thì người vợ phải theo chồng và giữ tiết hạnh với chồng. Trong mối quan hệ này thì người chồng là người giữ vai trò quyết định.
Nếu xếp theo “tôn ty trên- dưới” thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua – cha – chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia. Theo Đổng Trọng Thư thì mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, chồng vợ như vậy là thể hiện mối quan hệ âm dương của đạo trời nên tuân theo tam cương là tuân theo đạo trời.
Có thể thấy cách ứng xử trong đạo tam cương góp phần điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép, khuôn khổ. Tam cương là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định, có trật tự, có trên có dưới, nó là cơ sở để đảm bảo quyền thống trị của thiên tử. Tuy nhiên bên cạnh đó đạo cương thường là sợi dây trói buộc con người, làm cho con người trở nên thụ động, bắt con người chấp nhận vô điều kiện những chuẩn mực đạo đức nghiệt ngã đó.
2.2. Ngũ thường
Như đã biết tam cương thể hiện trật tự trong xã hội, tam cương đi liền với ngũ thường – năm đức cơ bản của con người gọi tắt là “cương thường”, cương thường là nền tảng chính trị, đạo đức của chế độ phong kiến.
Ngũ thường là khái niệm đạo đức Khổng học, chữ thường có nghĩa là bình thường, vĩnh hằng, ngũ thường chỉ năm đạo đức cơ bản của đạo làm người: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Khổng Tử hết sức coi trọng các phạm trù đạo đức này vì theo ông đó là chuẩn mực để tạo ra trật tự xã hội và duy trì trật tự xã hội.
• Nhân là phạm trù đạo đức đầu tiên cơ bản nhất trong đạo “cương - thường”. Tất cả các phạm trù đạo đức khác đều xoay quanh phạm trù này. Khổng Tử hình dung quốc gia giống như một gia đình lớn, vua được xem là người cha của gia đình lớn. Nho giáo đặt vua ở vị trí cao nhất trong tam cương và ngũ luận. Vì vậy đạo làm người phải hiếu thảo với cha mẹ, tận trung với vua chúa. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất phát điểm đầu tiên đó là gia đình, từ đó ông suy rộng ra đến quốc gia thiên hạ. Nho giáo xem gia đình giống như một trong ba khâu không thể thiếu của hoạt động con người “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
• Lễ là trật tự, kỉ cương phép nước mà mọi người phải tuân theo. Lễ là cái để phân biệt địa vị cao thấp của con người trong xã hội, tạo ra trật tự, khuôn khổ xã hội. Lễ trở thành một tiêu chuẩn để đánh giá, thước đo phẩm giá con người. Tuy nhiên lễ cũng là sợi dây ràng buộc con người làm cho suy nghĩ và hành động của con người trở nên cứng nhắc, khuôn phép, bất di bất dịch.
• Nghĩa là điều được coi hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội. Những người có nghĩa là những người có quan hệ tình cảm chung thủy, không bao giờ thấy việc lợi mà bỏ điều nghĩa, luôn hành động phù hợp với những quan điểm đạo đức nhất định.
• Trí là năng lực nhận thức, ghi nhớ, suy nghĩ, phán đoán của con người.
• Tín là đức tin của con người, biết trọng lời hứa.
Sở sĩ nói, ngũ thường là cũng là một trong số những nền tảng chính trị, đạo đức của chế độ phong kiến bởi ngũ thường đã tạo nên phẩm cách đạo đức của người quân tử, đồng thời cũng góp phần vào sự ổn định và giữ gìn trật tự quan hệ xã hội.
2.3. Chính danh
Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. Khổng tử cho rằng mỗi người trong xã hội đều có một vai trò nhất định. Nằm trong vai trò nhất định mỗi vật, mỗi người đều có một địa vị, bổn phận nhất định và tương ứng với nó là một Danh nhất định. Mỗi Danh đều có tiêu chuẩn riêng. Vật nào, người nào mang danh nào thì phải thực hiện và thực hiện cho bằng được những tiêu chuẩn của danh đó, nếu không phải gọi bằng danh khác. “Chính danh” làm cho mọi người ai ở địa vị nào và có danh phận như thế nào thì giữ đúng vị trí của mình hành động phù hợp với vị trí đó, không được rời vị trí của mình và giành lấy quyền lợi của người khác, không được lấn vượt và làm rối loạn. Như vậy khi đề ra học thuyết “chính danh” Khổng Tử cố gắng thực hiện nó qua hành động của mình, phản ánh tôn ti trật tự trong xã hội.
Danh và phận mỗi người trước hết do các mối quan hệ quy định. Cuộc sống có rất nhiều danh tạo nên, rất nhiều luân nhưng theo Nho gia chỉ có ngũ luận phản ánh năm mối quan hệ cơ bản trong xã hội vua- tôi, cha- con, chồng- vợ, anh – em, bạn bè. Sau Khổng Tử, học thuyết chính danh được Mạnh Tử, Tôn Tử tiếp tục phát triển. Tôn Tử đã dành hẳn một thiên để luận bàn về chính danh. Chính danh theo ông là để phân biệt người sang, kẻ hèn. Mục đích của chính danh mà Nho giáo đề cao là sự ổn định xã hội, song suy cho cùng là vấn đề bảo vệ quyề của thiên tử, duy trì sự phân biệt đẳng cấp trong xã hội.
Cũng như Tam cương, tư tưởng chính danh có ý nghĩa tích cực là làm cho con người ý thức được trách nhiệm nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, chính danh cũng kìm hãm tự do của cá nhân, làm cho con người luôn ở trạng thái nhu thuận, chỉ biết phục tùng theo phương châm, giữ lễ đến mức bảo thủ, cứng nhắc. Không thể phủ nhận vai trò của chính danh trong việc tạo ra một trật tự xã hội nhưng cũng cần phải nhìn nhận thấy những mặt hạn chế của chính danh.
3. Ảnh hưởng của Nho giáo đến trật tự quan hệ xã hội Trung Quốc
Nho giáo được sinh ra từ Trung Quốc, cho nên Nho giáo tại Trung Quốc không phải trải qua giai đoạn du nhập, càng không có sự lựa chọn tiếp thu những cái hay từ Nho giáo như ở Nhật Bản. Ở một đất nước đa dạng về tôn giáo như Trung Quốc mà hệ tư tưởng chính trị - đạo đức của Nho giáo lại được nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc, cũng như những nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc tôn trọng và áp dụng để cai quản đất nước, duy trì sự tồn tại và thịnh vượng của triều đại. Từ đó có thể thấy, Nho giáo có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới chính trị, kinh tế, văn hóa và đặc biệt hơn cả nó có sức ảnh hưởng vô cùng to lớn đến trật tự quan hệ xã hội của các nước Đông Bắc Á nói chung và Trung Quốc nói riêng.
Thực sự, Nho giáo có sức ảnh hưởng vô cùng to lớn đến trật tự quan hệ xã hội Trung Quốc thể hiện qua hai mặt tích cực và tiêu cực như sau:
3.1. Ảnh hưởng tích cực của nho giáo đến trật tự quan hệ xã hội Trung Quốc
• Định hình, hình thành các mối quan hệ xã hội và phân chia các mối quan hệ trong xã hội từ cao xuống thấp (theo tam cương), có ba quan hệ cơ bản là vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, nó phân định rõ ràng quyền, nghĩa vụ của từng người trong từng mối quan hệ và ai là người quyết định trong mối quan hệ đó. Như trong quan hệ cha – con thì con phải có hiếu với cha mẹ và trong quan hệ cha con thì cha là người giữ vai trò quyết định,...
Cách ứng xử trong đạo tam cương của Nho giáo ảnh hưởng tích cực đến việc điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép, khuôn khổ. Tam cương là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định, có trật tự, có trên có dưới, nó là cơ sở để đảm bảo quyền thống trị của thiên tử.
Các triều đại phong kiến Trung Quốc luôn chiếu theo tam cương mà thực hiện, vì thế thời phong kiến ở Trung Quốc thì vị trí của thiên tử luôn được đề cao. Thiên tử là người nắm giữ quyền lực tối cao và quyết định mọi việc của đất nước. Thiên tử được coi như là con trời, “trên vạn người dưới một người”. Từ đó nhân dân, quần thần đều tuân mệnh thiên tử, thiên tử thậm chí còn có quyền định đoạt cả mạng sống của con người. Trong triều đại phong kiến của Trung Quốc mọi ý kiến, đề xuất của các đại thần đều phải được vua phê tấu mới được phép thực hiện, kẻ nào đề xuất ý kiến không hợp lòng vua không đúng theo quy chuẩn xã hội chẳng những tấu chương không được phê chuẩn mà còn có thể bị trừng trị thích đáng. Các nhà nho mọi thời đại đều nhấn mạnh mối quan hệ vua – tôi, xây dựng tinh thần trung thân, ái quốc nhưng không mù quáng. Họ yêu cầu nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân, phải là bậc quân minh.
Ảnh hưởng của Nho giáo đến trật tự, quan hệ xã hội Trung Quốc còn biểu hiện ở việc Trung Quốc có sự phân chia các giai cấp tầng lớp. Chế độ phong kiến Trung Quốc phân thành 2 giai cấp đó là: Giai cấp thống trị (địa chủ phong kiến)
và giai cấp bị trị (nông dân, tầng lớp công thương, nô tỳ).
• Xây dựng lên hệ thống đạo đức chuẩn mực, tạo nên phẩm cách đạo đức của người quân tử, đồng thời cũng góp phần vào sự hình thành nên trật tự trong xã hội, sự ổn định và giữ gìn trật tự quan hệ xã hội.
Sở dĩ nói Nho giáo góp phần tạo nên phẩm cách đạo đức của con người là sau khi đã định ra các quan hệ cơ bản cho xã hội, Nho giáo không quên dựng lên chuẩn mực đạo đức, một hệ thống quy tắc xã hội, được biểu hiện qua ngũ thường với năm đạo đức cơ bản của đạo làm người: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Từ đây con người luôn tuân theo chuẩn mực đạo đức này, nhân dân Trung Quốc đặt chữ nhân lên hàng đầu“tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, coi trọng lễ “Tiên học lễ, hậu học văn”,... Khi con người tuân thủ theo chuẩn mực đạo đức sự ổn định của trật tự quan hệ xã hội cũng được duy trì.
• Khiến cho con người ý thức được trách nhiệm nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội. Từ đó tu thân để ngày một tốt hơn. Điều này thể hiện rõ qua thuyết chính danh của nho giáo.
• Góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn với phạm vi là toàn đất nước. Ai ai cũng đề cao chữ tín thì xã hội không còn điều dối trá, lòng tin giữa người với người càng được nâng cao, dễ dàng kết giao bạn bè, khiến cho tình cảm trong các mối quan hệ thân thiết hơn, các mối quan hệ càng thêm bề chặt.
• Ngoài ra, Nho giáo còn góp phần xây dựng quan hệ trong gia đình bền chặt hơn, có tôn ty hơn nhờ tuân theo 3 học thuyết tam cương, ngũ thường, chính danh và đặc biệt hơn là vai trò quan trọng của chữ hiếu như lời cuả Khổng Tử nói với Tăng Tử: “Này đây, hiếu là căn bản của đức, do giáo dục mà sinh ra. Hãy ngồi trở xuống, ta nói cho ngươi biết. Thân thể, hình hài, tóc tai, da thịt là do cha mẹ sinh ra không được gây hư hại là nết đầu của chữ Hiếu. Sau lo lập thân, hành đạo để lại tiếng thơm cho đời sau là nết cùng của chữ Hiếu. Này đây, chữ Hiếu lấy việc phụng dưỡng cha mẹ làm đầu, kế đến thờ vua, sau rốt là lập thân.".
3.2. Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo đến trật tự quan hệ xã hội Trung Quốc
• Hình xã hội phong kiến nam quyền đầy bất công đối với phụ nữ.
trong xã hội phong kiến Trung Quốc, thân phận người phụ nữ mong manh và rẻ rúng chẳng khác nào cái bóng trên tường.
Trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến Trung Quốc thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau: Phụ nữ sinh ra trai được quý trọng hơn sinh con gái; quyền hành của anh trai trưởng trong gia đình rất lớn (quyền huynh thế phụ); quyền thừa kế gia sản của cha mẹ chỉ dành cho con trai, còn con gái không được thừa kế hoặc chỉ được thừa kế các tài sản nhỏ; việc truyền nghề tại các làng nghề thường không truyền cho con dâu hay con gái; người con trai được học hành để thi cử, tiến thân bằng theo con đường quan lộ nhưng người phụ nữ thì chỉ quanh quẩn với việc nhà. Trong các mối quan hệ người người đàn ông thường được nhắc trước như mối quan hệ chồng – vợ, phụ nữ lấy chồng được gọi theo họ chồng. Theo những quy định mang tính nghĩa vụ của người Trung Quốc như “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” tức là người phụ nữ khi còn ở nhà phải nghe theo cha, lúc lấy chồng phải nghe theo chồng, nếu chồng qua đời phải theo con trai. Cho thấy trật tự xã vô cùng bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới.
Ngày nay, khi Trung Quốc đang kêu gọi bình đẳng giới tính, xóa bỏ tư tưởng trọng nam kinh nữ thì trật tự quan hệ xã hội Trung Quốc vẫn ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lọi của người phụ nữ, cản trở phụ nữ phát triển sự nghiệp của mình. Các công ty thường ưu tiên chọn nhân viên nam hơn, do họ không trải qua thời kỳ làm mẹ, các công ty sẽ không mất một khoản trợ cấp lớn trong thời gian nhân viên nghỉ chăm con, các ông chủ, giám đốc công ty thường ưu tiên chọn nam giới vào vị trí lãnh đạo, trong khi đó nhân viên nữ thường chỉ làm các công việc đơn giản và có mức lương thấp,...
• Những tư tưởng khắt khe của Nho giáo về lễ, nghĩa, trung, hiếu đôi khi là sợi dây bó buộc, kìm hãm sự triển của con người, làm cho con người trở nên thụ động, bắt con người chấp nhận vô điều kiện những chuẩn mực đạo đức nghiệt ngã, chỉ được làm đúng bổn phận “chính danh”.
• Tuyệt đối hóa vai trò của vua, hoàng đế, thiên hoàng, tạo ra tư tưởng bảo thủ, độc quyền độc đoán. Đôi khi có ảnh hưởng nghiêm trọng đến vận mệnh quốc gia, cuộc sống nhân dân.
• Tư tưởng của Nho giáo còn tạo ra hố sâu ngăn cách và phân biệt đẳng cấp, giới tính, trọng nam khinh nữ.
Những yếu tố này, được xem là những bước cản cho sự và triển của xã hội Trung Quốc. Ngày nay tư tưởng Nho giáo đã được chú trọng phục hồi hơn trong những năm trở lại đây. Một số yếu tố ảnh hưởng không tích cực đã dần bị xóa bỏ, tuy nhiên hiệu quả vẫn chưa được như mong muốn.
C. Tổng kết
Nho giáo ra đời và tồn tại ở Trung Quốc hàng chục thế kỷ qua. Tại mỗi thời điểm, mỗi giai đoạn, Nho giáo lại xuất hiện với những bộ mặt khác nhau, in đậm dấu ấn văn hóa-chính trị thời kỳ đó. Tuy phải trải qua nhiều thăng trầm biến cố trong lịch sử, có những lúc các giá trị tốt đẹp của Nho giáo hoàn toàn bị xã hội phủ nhận, lên án gay gắt, nhưng cho đến ngày nay Nho giáo vẫn tiếp tục khẳng định sức sống bền lâu của nó không chỉ ở tại Trung Quốc đại lục mà ở hầu hết các quốc gia trong vòng cung văn hóa Hán.
Nho giáo có sức ảnh hưởng (tích cực và tiêu cực) to lớn đến trật tự xã hội của Trung Quốc nói riêng và các nước Đông Bắc Á nói chung. Cần phát huy và duy trì những điểm tích cực của Nho giáo và xóa bỏ những tư tưởng bảo thủ lạc hậu không phù hợp trong thời đại mới là công việc khó khăn gian nan nhưng cần phải được thực hiện nếu muốn tiến tới một xã hội phát triển văn minh, công bằng và bình đẳng. Để có thể phát huy tối đa những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo trong mọi mặt đời sống cần đi đôi với việc tiếp thu và phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại.
Trên đây là là khái quát sơ lược về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đến quan hệ trật tự xã hội Trung Quốc. Kinh nghiệm nghiên cứu và thời gian hạn hẹp, khiến cho vấn đề nghiên cứu chưa được hoàn thiện nhất. Mong nhận được ý kiến đánh giá, góp ý từ người nghiên cứu đi trước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trần Trọng Kim; Nho Giáo Trọn Bộ, Nxb Văn Học, 2003, tr.734
[2]. Phan Ngọc; Bản sắc văn hoá Việt Nam; Nxb Văn học, 2006, tr.170
[3]. http://tailieu.vn/tag/dao-duc-chinh-tri-xa-hoi-cua-khong-tu.html
[4].https://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_t%C3%B2ng,_t%E1%BB%A9_%C4%91%E1%BB%A9c
[5]. http://123doc.org/document/2592039-thuyet-duc-tri-cua-khong-tu-va-anh-huong-cua-no-doi-voi-phuong-thuc-quan-ly-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay.htm
[6]. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nho_gi%C3%A1o
[7]. http://cjs.inas.gov.vn/index.php?newsid=1104
[9]. http://www.bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1705-1776-633438675330430000/100-loi-giai-dap-ve-van-hoa-Viet-Nam/The-nao-la-tam-cuong-ngu-thuong.htm
[10]. http://tailieu.vn/tag/dao-duc-chinh-tri-xa-hoi-cua-khong-tu.html
Nội dung liên quan
Dung Minh Hoàng