Làm sao để phân biệt sốt xuất huyết và sốt thông thường?

  1. Sức khoẻ

Tôi thấy các dấu hiệu, triệu chứng của sốt xuất huyết và sốt cảm bình thường rất giống nhau. Vậy làm sao để phân biệt được sốt xuất huyết để chữa trị kịp thời. Xin các bác sĩ giải đáp giúp, tôi xin cảm ơn!

Từ khóa: 

sức khoẻ

Chào bạn!

- Sốt là khi có sự tăng nhiệt độ cơ thể tạm thời do phản ứng lại với bệnh. Nhiệt độ cơ thể không bằng nhau ở các thời điểm trong ngày, thường là cao hơn vào buổi chiều. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân nhiệt độ vượt quá 37.5 oC là bị sốt. Sốt cũng thường xảy ra khi cơ thể phản ứng lại với sự nhiễm khuẩn như virus cảm cúm hoặc cảm lạnh, vi khuẩn viêm họng, viêm gây ra do tổn thương mô hoặc bệnh tật.

- Sốt xuất huyết thường diễn biến qua 3 giai đoạn:

Giai đoạn sốt cao: Thường trong 3 ngày đầu. Bệnh nhân sốt cao liên tục, đau đầu, nhức vùng hốc mắt, đau mỏi các cơ khớp, đau tức thắt lưng. Các dấu hiệu này giống như biểu hiện khi nhiễm nhiều loại virus khác nên chỉ có thể phân biệt nhờ xét nghiệm.

Giai đoạn diễn biến nặng: Thường từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 của bệnh. Bệnh nhân lui sốt dần nhưng lại có thể xuất hiện các biến chứng nặng:

  • Biến chứng tăng tính thấm thành mạch, gây thoát dịch khỏi mạch máu, làm máu trong lòng mạch cô đặc lại. Nếu không được bù dịch kíp thời sẽ làm thiếu thể tích trong lòng mạch, gây tụt huyết áp và sốc. Những trường hợp sốc nếu không được xử trí kịp thời có thể tử vong trong vòng một vài giờ.
  • Biến chứng hạ tiểu cầu trong máu. Nếu nặng có thể gây các chảy máu bất thường như Xuất huyết dưới da, chảy máu cam, chảy máu chân răng, hoặc các xuất huyết nội tạng nguy hiểm như: Chảy máu tiêu hóa, xuất huyết não, xuất huyết trong ổ bụng hay băng kinh và có thể dẫn đến tử vong nếu không được truyền tiểu cầu, cầm máu kịp thời.
  • Ngoài hai biến chứng thường gặp trên, người bệnh có thể có các biến chứng hiếm gặp hơn như: Viêm não, viêm cơ tim, hạ bach cầu máu và giảm miễn dịch gây bội nhiễm vi khuẩn, vv...

Giai đoạn hồi phục: Thường sau giai đoạn thoát dịch 24-48h. Bệnh nhân hết sốt, phần dịch thoát ra khỏi lòng mạch lại tái hấp thụ lại làm gia tăng lượng dịch trong lòng mạch. Giai đoạn này cần hạn chế truyền dịch để tránh nguy cơ quá tải dịch.

Như vậy, với sốt xuất huyết, trong giai đoạn sốt cao, chỉ có thể phân biệt với các sốt virus khác nhờ xét nghiệm sớm. Còn sang các giai đoạn sau thì phân biệt nhờ xét nghiệm và diễn biến bệnh.

Điều đáng lưu ý là với sốt thông thường, khi lui sốt là bệnh đã lui. Còn với sốt xuất huyết thì khi lui sốt là bắt đầu bước vào giai đoạn biến chứng nguy hiểm, cần phải đến cơ sở y tế để khám, làm xét nghiệm hàng ngày để phát hiện sớm những biến chứng này để xử trí kịp thời.

Trả lời

Chào bạn!

- Sốt là khi có sự tăng nhiệt độ cơ thể tạm thời do phản ứng lại với bệnh. Nhiệt độ cơ thể không bằng nhau ở các thời điểm trong ngày, thường là cao hơn vào buổi chiều. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân nhiệt độ vượt quá 37.5 oC là bị sốt. Sốt cũng thường xảy ra khi cơ thể phản ứng lại với sự nhiễm khuẩn như virus cảm cúm hoặc cảm lạnh, vi khuẩn viêm họng, viêm gây ra do tổn thương mô hoặc bệnh tật.

- Sốt xuất huyết thường diễn biến qua 3 giai đoạn:

Giai đoạn sốt cao: Thường trong 3 ngày đầu. Bệnh nhân sốt cao liên tục, đau đầu, nhức vùng hốc mắt, đau mỏi các cơ khớp, đau tức thắt lưng. Các dấu hiệu này giống như biểu hiện khi nhiễm nhiều loại virus khác nên chỉ có thể phân biệt nhờ xét nghiệm.

Giai đoạn diễn biến nặng: Thường từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 của bệnh. Bệnh nhân lui sốt dần nhưng lại có thể xuất hiện các biến chứng nặng:

  • Biến chứng tăng tính thấm thành mạch, gây thoát dịch khỏi mạch máu, làm máu trong lòng mạch cô đặc lại. Nếu không được bù dịch kíp thời sẽ làm thiếu thể tích trong lòng mạch, gây tụt huyết áp và sốc. Những trường hợp sốc nếu không được xử trí kịp thời có thể tử vong trong vòng một vài giờ.
  • Biến chứng hạ tiểu cầu trong máu. Nếu nặng có thể gây các chảy máu bất thường như Xuất huyết dưới da, chảy máu cam, chảy máu chân răng, hoặc các xuất huyết nội tạng nguy hiểm như: Chảy máu tiêu hóa, xuất huyết não, xuất huyết trong ổ bụng hay băng kinh và có thể dẫn đến tử vong nếu không được truyền tiểu cầu, cầm máu kịp thời.
  • Ngoài hai biến chứng thường gặp trên, người bệnh có thể có các biến chứng hiếm gặp hơn như: Viêm não, viêm cơ tim, hạ bach cầu máu và giảm miễn dịch gây bội nhiễm vi khuẩn, vv...

Giai đoạn hồi phục: Thường sau giai đoạn thoát dịch 24-48h. Bệnh nhân hết sốt, phần dịch thoát ra khỏi lòng mạch lại tái hấp thụ lại làm gia tăng lượng dịch trong lòng mạch. Giai đoạn này cần hạn chế truyền dịch để tránh nguy cơ quá tải dịch.

Như vậy, với sốt xuất huyết, trong giai đoạn sốt cao, chỉ có thể phân biệt với các sốt virus khác nhờ xét nghiệm sớm. Còn sang các giai đoạn sau thì phân biệt nhờ xét nghiệm và diễn biến bệnh.

Điều đáng lưu ý là với sốt thông thường, khi lui sốt là bệnh đã lui. Còn với sốt xuất huyết thì khi lui sốt là bắt đầu bước vào giai đoạn biến chứng nguy hiểm, cần phải đến cơ sở y tế để khám, làm xét nghiệm hàng ngày để phát hiện sớm những biến chứng này để xử trí kịp thời.